Tác giả: Thái Nguyên chỉnh lý
Vào thời nhà Thanh, ở Giang Ninh có một thư sinh họ Cố, được mệnh danh là thần đồng, chưa đến tuổi trưởng thành đã đỗ sinh viên, sau đó qua kỳ thi liền có được tư cách lẫm sinh, hưởng trợ cấp của triều đình. Vợ của ông cũng là người có học vấn hơn người, tự ví mình như Thái Văn Cơ. Nhưng gia cảnh “giật gấu vá vai”, chỉ trông mong vào việc chồng đỗ đạt trong khoa cử.
Vào năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Khánh, sắp đến ngày thi, chàng thư sinh họ Cố đột nhiên lâm bệnh không thể gượng dậy nổi. Người vợ lo lắng không yên, thầm nghĩ: “Năm nay chồng mình không thi đỗ, cả nhà sẽ không có nơi nương tựa, sau này phải làm sao?” Suy đi tính lại, nàng vẫn không quyết được. Đêm hôm đó, nàng bỗng nảy ra một ý nghĩ táo bạo, muốn giả trai thay chồng đi thi, nhưng lại sợ khó trà trộn vào trường thi.
Đến ngày thi, vợ của chàng Cố đã đến trường thi. Khi điểm danh, trời vừa hay đổ mưa, nàng bèn đội mũ che mưa, mặc trang phục nam nhi, trà trộn vào trường thi và tìm được phòng thi của mình. Có một thí sinh là hàng xóm nhà nàng, vốn quen biết nhau, cũng ở trong phòng thi này. Thấy nàng bước vào, anh ta vô cùng kinh ngạc, nói: “Thím sao lại đến đây?” Vợ chàng Cố xua tay, ra hiệu cho anh ta đừng lên tiếng, rồi khẽ nói cho anh ta biết lý do mình thi thay chồng. Người thí sinh hàng xóm liền quay về chỗ của mình.
Trong lúc thi, vợ chàng Cố vì quá mệt mỏi nên đã gục xuống bàn thiếp đi, chiếc mũ che mưa bị rơi xuống. Gió thổi tung rèm cửa phòng thi, một thí sinh đi ngang qua tình cờ nhìn thấy búi tóc của nàng lộ ra. Thí sinh đó đứng bất động nhìn chằm chằm, rồi gọi các thí sinh khác đến. Mọi người xúm lại quanh rèm cửa để xem. Giám thị phát hiện sự việc, bèn báo lên cho quan Đề điệu và Giám lâm (các quan chức phụ trách kỳ thi).
Quan Giám lâm thẩm vấn vợ chàng Cố và biết được sự tình, bèn yêu cầu nàng làm một bài thơ. Nàng liền đề bút viết xong ngay, bài thơ rằng:
Lương nhân mão giác xưng thư nang,
Lậu hạng đơn biều khổ bị thường;
Hoạn bệnh lâm trường quần thất ngưỡng,
Phẫn nam nhập viện đại tranh quang.
Tích thời dĩ hữu Hoàng Tông Hỗ,
Kim nhật khởi vô Cố Mạnh Khương,
Mộng bút sinh hoa tiên cụ triệu,
Khất ân chung quyển độ từ hàng.”
Tạm dịch nghĩa:
(Chồng trẻ vốn là bậc thư sinh, Nơi ngõ hẹp nếm đủ đắng cay nghèo khó; Lâm bệnh trước kỳ thi khiến bao người thất vọng, Giả trai vào trường thi thay chồng giành lấy vinh quang. Xưa đã có người như nàng Hoàng Tông Hỗ, Nay há lại không có một Cố Mạnh Khương này sao? Giấc mộng thấy bút nở hoa là điềm lành báo trước, Cúi xin ban ơn cho con thuyền từ bi này được hoàn thành bài thi.)
Quan Giám lâm đọc xong liền than rằng: “Đây thực sự là một tài nữ! Có thể đính kèm bài thơ này trình lên trên, nhưng tiếc là nàng đã vi phạm quy chế, nếu cho đỗ e rằng sẽ chọc giận Thánh thượng.” Thế rồi, quan cho người đưa nàng đến huyện Thượng Nguyên giam giữ, chờ sau khi kỳ thi kết thúc sẽ xử lý. Huyện lệnh giữ nàng lại trong nha môn, để nàng làm cô giáo dạy học.
Sau khi bảng vàng được công bố, quan trung thừa (tên gọi tôn kính dành cho Tuần phủ) đã lệnh cho quan Phương Bá (tức Bố chính sứ) cùng các thuộc hạ quyên góp hai nghìn lạng bạc để giúp đỡ và đưa nàng về nhà. Chồng nàng vì sợ vợ gặp họa mà bệnh tình ngày một nặng thêm. Đến khi vợ trở về kể lại đầu đuôi câu chuyện, chàng vô cùng cảm kích ân đức nhân từ của các vị quan trên, cũng kinh ngạc trước sự táo bạo của vợ mình, bệnh tình cứ thế thuyên giảm từng ngày, và chàng càng chuyên tâm học hành hơn. Về sau, sự nghiệp của chàng phất lên như diều gặp gió.
Thật trùng hợp, vào thời nhà Thanh ở Diêm Thành cũng có một câu chuyện tương tự. Ở đó có một người phụ nữ rất tài hoa, người đời sau không biết họ tên của bà. Bà lấy một người học trò, gia cảnh rất nghèo khó, nhưng hai vợ chồng tình cảm rất mặn nồng. Một năm nọ, đến Tết Đoan Ngọ, chum gạo trong nhà đã cạn, không có gì để nấu ăn. Người phụ nữ bèn ngâm một bài thơ:
Tự liên bạc mệnh giá cùng phu,
Minh nhật Đoan Ngọ kiện kiện vô,
Giai tiết mạc giao hư quá khứ,
Liêu tương thanh thủy tẩy xương bồ.
Tạm dịch nghĩa:
(Tự thương phận bạc lấy chồng nghèo, Ngày mai Đoan Ngọ chẳng có gì, Tiết đẹp đừng để trôi qua uổng, Thôi đành lấy nước rửa xương bồ.)
(Xương bồ là một loại cây cỏ, dân gian có tục lệ treo cây xương bồ vào ngày Tết Đoan Ngọ để trừ tà.) Bà viết bài thơ xong và để trên bàn học.
Người chồng thức dậy trông thấy, trong lòng cảm thấy vô cùng hổ thẹn, rồi vội vã rời nhà. Sáng hôm sau, anh ta mang về một cái móng giò và một vò rượu, mời vợ cùng ăn uống no say. Người vợ không hiểu anh lấy đâu ra móng giò và rượu, gặng hỏi mấy lần mà anh vẫn chỉ cười không đáp. Vài ngày sau, nha lại đến nhà bắt chồng bà đi. Hóa ra, rượu thịt mà anh ta mang về vào dịp Tết Đoan Ngọ là do trộm bò của nhà hàng xóm đem bán mà có.
Quan huyện lệnh mở phiên tòa xét hỏi, anh ta bèn đọc lại bài thơ của vợ. Quan huyện lệnh lại cho gọi người vợ đến thẩm vấn và nói: “Ngươi đã biết làm thơ, có thể làm thử một bài ngay tại đây được không?” Người vợ đáp: “Dạ được.” Quan huyện lệnh bèn ra đề tài là “Trộm bò”. Vợ anh ta liền cất tiếng ngâm rằng:
Thao thao Hoàng thủy hướng đông lưu,
Nan tẩy kim triêu mãn diện tu;
Tự tiếu thiếp thân phi Chức Nữ,
Phu quân hà sự hiệu Khiên Ngưu.
Tạm dịch nghĩa:
(Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy về đông, Khó rửa sạch nỗi hổ thẹn trên mặt hôm nay; Tự cười mình đâu phải nàng Chức Nữ, *Cớ sao chàng lại bắt chước chàng Ngưu Lang (dắt trâu đi)?)
Quan huyện lệnh nghe xong liền vỗ tay khen ngợi, vô cùng tán thưởng. Thế rồi, ông tha tội cho chồng bà, còn giúp bà chuộc lại con bò trả cho người hàng xóm, và tặng thêm hai mươi lạng bạc để cứu giúp gia đình. Ôi, có thể nói vị huyện lệnh này là người có phẩm cách thanh cao, yêu mến nhân tài vậy. Còn người phụ nữ này cũng có tài tư duy nhanh nhạy, thơ văn tự nhiên, gọi bà là tài nữ cũng không ngoa.
Nguồn tư liệu: “咫聞錄” (Chỉ Văn Lục), “壺天錄” (Hồ Thiên Lục)
- Trọn bộ Nhân sinh cổ đạo
Theo Epoch Times