Bài viết: Nhan Đan Nguồn: Chánh Kiến Net
Người xưa thường có câu: “Cứu một mạng người hơn xây thất cấp phù đồ”. Ý nói rằng công đức tích được từ việc cứu sống một mạng người tương đương với việc xây dựng một tòa tháp Phật bảy tầng. Vậy thì việc xây dựng tòa tháp bảy tầng sẽ mang lại bao nhiêu công đức? Có thuyết cho rằng đó là công đức “vô lượng”. Thực tế, trong các kinh Phật cổ xưa cũng có ghi chép: “Xây trăm ngôi chùa, không bằng cứu sống một người”.
Cứu sống một người đã có công đức lớn như vậy, huống chi là cứu sống nhiều người? Loại công đức vô lượng này khi hiển hiện ở nhân gian, người tích đức, thậm chí cả gia tộc và con cháu đời sau của họ, sẽ nhận được những phúc báo mà người thường khó lòng có được.
Ví dụ như những nhân vật dưới đây, cả gia tộc họ, con cháu nối tiếp nhau nhiều đời đều đỗ đạt Tiến sĩ, Trạng nguyên. Họ đã làm thế nào để đạt được điều đó? Trong cuốn “Lữ Viên Tùng Thoại” có ghi lại vài câu chuyện như sau.
Một sĩ tử triều Minh tên là Trâu Đoài Kim, vào năm Sùng Trinh Canh Ngọ (năm 1630) đã đến Nam Kinh để tham dự kỳ thi Hương. Khi đó, ông mang theo rất nhiều tài vật và đi bằng thuyền.
Khi đến Trấn Giang, đột nhiên cuồng phong nổi lên, rất nhiều thuyền bè trên sông bị lật úp, những người ngồi trên thuyền đều rơi xuống nước. Lúc này, Trâu Đoài Kim mở rương của mình ra, hét lớn với những người trên thuyền: “Hiện giờ tình thế nguy cấp, ta quyết không tiếc tài vật. Các ngươi hãy cứ xuống nước cứu người, hễ cứu được một người lên, ta sẽ thưởng mười lượng bạc”.
Nghe vậy, những người xung quanh đều tranh nhau nhảy xuống nước cứu người. Chỉ một lát sau, tất cả những người bị rơi xuống nước đều được cứu lên. Rương bạc của Trâu Đoài Kim cũng vừa vặn phát hết.
Khi đó, tại chùa Kim Sơn gần đấy, có một vị lão hòa thượng tu hành đã lâu năm tình cờ nhìn thấy cảnh tượng này, liền nói: “Người này có đại đức, ta có thể đi được rồi”. Nói xong, ông quay về phòng ngồi thiền và không bao giờ trở ra nữa.
Năm ấy, sau khi Trâu Đoài Kim đỗ kỳ thi Hương và trở về nhà, lúc đi ngang qua chùa Kim Sơn, ông phát hiện vị lão hòa thượng kia đã viên tịch. Không lâu sau, vợ của Trâu Đoài Kim sinh hạ một bé trai, đặt tên là Trâu Vu Độ.
Đến năm Thuận Trị thứ 9 nhà Thanh (năm 1652), Trâu Vu Độ thi đỗ Trạng nguyên. Sau này có người nói rằng, tiền kiếp của Trâu Vu Độ chính là vị lão hòa thượng kia.
Câu chuyện thứ hai kể về một vị mưu sĩ họ Từ, là phụ tá cho vị quan cao cấp triều Minh tên là Nghiêm Nột (tự Mẫn Khanh). Có một năm, vùng Giang Chiết xảy ra lũ lụt nghiêm trọng. Vị Từ công này thấy triều đình mãi vẫn chưa có tin tức chẩn tai, liền lập tức viết sớ, nhờ quan chủ quản lúc bấy giờ là Nghiêm Nột tâu lên Hoàng đế.
Nghiêm Nột không dám hành động lỗ mãng, bèn tìm người bói toán trước. Sau khi người bói toán bảo là điềm lành, ông mới dâng sớ lên. Sau đó, triều đình rất nhanh đã cấp lương thực và các vật tư cần thiết để cứu trợ, cứu sống được rất nhiều dân chúng vùng thiên tai. Cũng chính vào thời điểm đó, con trai của ông là Từ Khai Pháp chào đời.
Vào giai đoạn chuyển giao giữa nhà Minh và nhà Thanh, có một viên tướng làm phản, trở thành giặc cướp. Hắn dẫn theo một đám người bắt cóc hàng trăm phụ nữ con nhà lành, nhốt họ trong một ngôi nhà trống của Từ gia, và bắt Từ Khai Pháp phải canh giữ.
Tuy nhiên, sau khi bọn cướp rời đi, Từ Khai Pháp liền mở cửa, sai người đưa tất cả những phụ nữ đó về nhà, sau đó châm lửa đốt trụi ngôi nhà của mình. Khi bọn cướp quay lại, ông trả lời: “Đêm hôm đó nhà bất ngờ bị cháy, người đều chết cháy hết cả rồi”. Bọn cướp nghe xong, đành hậm hực bỏ đi.
Nhiều năm sau, con trai trưởng của Từ Khai Pháp là Từ Càn Học đỗ Trạng nguyên năm Thuận Trị Kỷ Hợi. Con trai thứ và con trai thứ ba lần lượt đỗ Thám hoa vào năm Khang Hy Canh Tuất và Quý Sửu.
Ba anh em trong một nhà đều đỗ vào “Tam đỉnh giáp” (ba vị trí đầu bảng: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), đây là điều cực kỳ hiếm thấy tại địa phương. Mọi người đều nói đó là phúc báo do tổ tiên, cha ông tích đức mang lại. Câu chuyện về “Côn Sơn Tam Từ” (ba người họ Từ ở Côn Sơn) nhất thời được truyền tụng làm giai thoại. Về sau, năm người con trai của Từ Càn Học cũng đều thi đỗ Tiến sĩ.
Còn một vị nữa vào đầu thời nhà Thanh, tên là Trần Lý (tự Hậu Am), làm quan coi ngục, đã cứu được cả ngàn phụ nữ từ tay quân phản loạn. Khi đó ông đang nhậm chức tại phủ Bình Lạc, Quảng Tây.
Sau này do thế đạo hỗn loạn, ông bước lên con đường hồi hương. Dọc đường đi đâu đâu cũng có giặc cướp hoành hành, nhưng ông lại có thể đưa cả gia đình bình an trở về quê nhà.
Sau này, hai người con trai của ông đều đỗ Tiến sĩ và vào triều làm quan. Trong năm người cháu nội, có một người nhờ hiền lương phương chính mà được tiến cử làm quan, bốn người còn lại đều cùng đỗ Cử nhân vào năm Ung Chính nguyên niên (năm 1723), sau đó nhậm chức ở các nơi.
Bốn người chắt của ông cũng đều đỗ Cử nhân và vào triều làm quan. Cháu chút (huyền tôn) cũng trở thành võ tướng, được giao giữ chức quan không nhỏ. Người dân địa phương đều nói, Trần gia quả thực có thể gọi là đời đời hiển hách.
Người viết cho rằng Phúc, Lộc, Thọ trong đời người về cơ bản đều đã được định sẵn, và tất nhiên là có nguyên do. Thông thường, những điều đó không đến từ sự luồn cúi bất chấp thủ đoạn hay sự nỗ lực nhất thời, mà chủ yếu là sự hiển lộ khi đức hạnh của tiền kiếp bản thân hoặc của tổ tiên, cha ông tích lũy đã đạt đến một mức độ nhất định.
Nhìn nhận như vậy, câu nói “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh” (Nhà tích chứa điều thiện, ắt có niềm vui dư dật) không chỉ là một lời chúc tụng may mắn, mà là luật nhân quả hiện hữu thực sự.
Theo Epoch Times