Trên hành trình dài đằng đẵng của cuộc đời, tình bạn như một ngọn đèn sáng. Nó không bùng cháy vì hư danh, nhưng lại có thể chiếu rọi lòng người trong những năm tháng độc hành. Người xưa bàn về kết giao, không nằm ở thế lợi, mà ở chỗ “lấy Đạo mà tôn trọng nhau” (dĩ đạo tương thượng). Đạo (道), chính là chí hướng, là nghĩa khí, là nơi tâm được an định. Đó không phải là mối giao hảo vì lợi ích, mà là người bạn tâm đầu ý hợp về Đạo; không phải là niềm vui nhất thời, mà là tri kỷ của cả đời.
Nếu kể lại những tấm gương nghìn xưa, vua Quang Vũ và Nghiêm Tử Lăng, Quản Trọng và Bào Thúc Nha, Bá Nha và Chung Tử Kỳ, Quản Ninh và Hoa Hâm, tất cả đều lấy Đạo làm bạn, lấy Tâm làm ước hẹn, lưu lại cho nhân gian thứ ánh sáng tình bạn trong trẻo nhất.
Một, Quang Vũ và Nghiêm Tử Lăng: Lấy Đạo tôn trọng nhau, tình ở non nước
“Một bạn ẩn non nước, một vua vướng bụi trần; Đạo tuy khác, tâm vẫn hợp.”
Đầu thời Đông Hán, Lưu Tú (vua Quang Vũ) từ áo vải dấy binh, cuối cùng trở thành vị vua trung hưng. Nghiêm Tử Lăng, tên Quang, là bạn học thuở nhỏ với Lưu Tú, chí hướng hợp nhau. Sự nghiệp đế vương đã định, Nghiêm Tử Lăng lại không màng vinh hoa, ở ẩn bên sông Phú Xuân, khoác áo lông cừu câu cá, tự hiệu “Phú Xuân Ngư Phủ”.
Vua Quang Vũ nhớ bạn cũ, mến người hiền, sai thợ vẽ tranh đi tìm. Nghe nói ở núi Phú Xuân có ẩn sĩ giống Nghiêm Quang, bèn sai sứ mang lễ vật hậu hĩnh đến mời. Tử Lăng thản nhiên nói: “Ta chỉ là ông lão đánh cá, không phải người làm quan.” Quang Vũ cười nói: “Kẻ sĩ cuồng này, vẫn như xưa.” Bèn tự mình đến thăm.
Đến nhà cỏ, Tử Lăng nằm mà không ra đón. Vua tự tay sờ bụng ông, hỏi: “Có chịu giúp ta không?” Tử Lăng ung dung đáp: “Kẻ sĩ mỗi người có chí riêng, hà tất phải ép uổng nhau?”
Vua than thở rồi về, vẫn mời ông vào cung, cùng nói chuyện cũ, ngủ chung giường. Thái sử tâu “Sao Khách phạm vào Đế Tọa” (sao lạ xâm phạm ngôi vua), Vua cười nói: “Là bạn ta Tử Lăng đó thôi.” Từ đó không ép ở lại nữa.
Lý Bạch vịnh rằng:
Chiêu chiêu Nghiêm Tử Lăng,
Thùy điếu thương ba gian.
Thân tương khách tinh ẩn,
Tâm dữ phù vân nhàn.
Dịch thơ:
Nghiêm Lăng rạng rỡ bậc cao nhân,
Sóng biếc buông câu, lánh bụi trần.
Thân ẩn nương theo vì sao khách,
Lòng nhàn phiêu dạt với phù vân.
Phạm Trọng Yêm trong “Nghiêm Tiên Sinh Từ Đường Ký” tán dương rằng: “Tiên sinh là cố nhân của Hán Quang Vũ vậy, cùng tôn trọng nhau bằng Đạo.” “Non xanh thăm thẳm, sông nước mênh mông, phong thái của tiên sinh, núi cao sông dài (sơn cao thủy trường).”
Một vua, một ẩn sĩ, mỗi người giữ Đạo của mình. Kết giao bằng tâm mà không kết giao bằng thế, kính trọng ở chí mà không khuất phục ở vị. Đây chính là cảnh giới cao nhất của việc “lấy Đạo mà tôn trọng nhau”.
Nghiêm Tử Lăng không màng vinh hoa, ở ẩn bên sông Phú Xuân, khoác áo lông cừu câu cá, tự hiệu “Phú Xuân Ngư Phủ”. Tranh “Nghiêm Tiên Sinh Câu Cá Sông Phú Xuân” của Nhậm Bá Niên đời Thanh. (Miền công cộng)
Hai, Quản Trọng và Bào Thúc Nha: Lấy thành mà biết nhau, ơn tri ngộ sâu dày
“Biết ta lúc hèn mọn, dung ta lúc khốn cùng; giúp ta thành nghiệp với thiên hạ, chính là người hiểu ta vậy.”
Thời Xuân Thu, nước Tề có hai kẻ sĩ – Quản Trọng và Bào Thúc Nha. Quen nhau từ thời trẻ, cùng nhau buôn bán. Quản Trọng nhà nghèo, thường bỏ vốn ít mà chia lời nhiều, Bào Thúc chưa từng tính toán, biết ông không tham, thực là vì nghèo. Một niệm thấu hiểu này, đã gieo mầm tri kỷ.
Sau hai người thờ hai chủ khác nhau: Bào Thúc phò Công tử Tiểu Bạch (sau là Tề Hoàn Công), Quản Trọng giúp Công tử Củ. Công tử Củ thất bại, Quản Trọng bị bắt. Bào Thúc chẳng những không báo thù cũ (Quản Trọng từng bắn tên suýt trúng Tiểu Bạch), ngược lại còn khuyên Hoàn Công tha tội mà trọng dụng. Nói: “Quản Trọng là người hiền. Được người này, Tề có thể bá chủ chư hầu.”
Hoàn Công nghe theo. Quản Trọng ra tù làm tướng, chấn hưng thiên hạ, nước Tề bèn thành bá chủ. Sau khi công thành danh toại, ông than rằng: “Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu ta là Bào Thúc vậy.”
Biết nhau không vì lợi, dung thứ không vì thất bại, tiến cử không vì ghen ghét. Đây là tình bạn “lấy thành hợp Đạo”.
Người xưa nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ.” Nhưng sâu hơn một tầng, người tri kỷ, không chỉ biết tài, mà còn biết tâm. Cái “biết” của Bào Thúc Nha, khiến Quản Trọng có thể trải chí với thiên hạ; cái nghĩa của Quản Trọng, khiến tên tuổi tri kỷ mãi không phai mờ.
Bạn thật, là người có thể lúc khốn đốn không rời bỏ, lúc vinh hiển không kiêu ngạo. Đôi bên lấy Đạo làm giao ước (khế), mới có thể lâu dài như núi sông.
Ba, Bá Nha và Chung Tử Kỳ: Lấy tâm tương hợp, tri âm thiên cổ
“Núi ở trong đàn, nước ở trong tâm; tri âm vừa mất, đất trời tĩnh lặng.”
Thời Xuân Thu, người nước Sở là Du Bá Nha, tài đàn phi phàm. Một lần phụng mệnh đi sứ nước Tấn, thuyền đỗ ở Hán Dương, đêm trăng gảy đàn. Tiếng đàn lúc như núi cao sừng sững, lúc như nước chảy cuồn cuộn. Tiều phu Chung Tử Kỳ nghe mà hiểu, nói: “Cao thay như núi Thái Sơn, cuồn cuộn thay như sông ngòi!”
Bá Nha kinh ngạc vui mừng, bèn cùng gặp gỡ, lời nói hợp ý (khế tâm), hẹn năm sau gặp lại. Năm sau Bá Nha trở lại, Tử Kỳ đã mất. Bá Nha đến trước mộ Tử Kỳ gảy khúc “Cao sơn lưu thủy”, đàn xong đập đàn gãy dây (đoạn huyền), nói: “Đời không còn tri âm nữa!”
Đàn đứt mà ý không dứt, “Cao sơn lưu thủy” bèn trở thành điển cố thiên cổ về tri âm.
Mối giao hảo này không phải là giao hảo hình thức, mà là “lấy tâm ấn tâm”, “lấy Đạo thông Đạo”.
Tiếng đàn của Bá Nha là Đạo trong tâm ông; sự hồi ứng của Tử Kỳ là sự đồng điệu với cái Đạo đó. Đời người kết giao thì nhiều, người hiểu được tâm thì hiếm. Người có thể thông tâm của bạn, chỉ có tri âm mà thôi.
Được một tri kỷ, như nghe được sự đồng vọng của trời đất. Tình này không ở chỗ lâu dài, mà ở chỗ chân thật.
Bốn, Quản Ninh cắt chiếu: Lấy nghĩa làm ranh giới, quý ở kiên trì
“Lặng lẽ một nhát cắt, cắt chiếu không phải đoạn tình, mà là tỏ chí, chính là Đạo.”
Thời Ngụy Tấn, phong khí (lối sống) phù hoa. Quản Ninh và Hoa Hâm đang cuốc cỏ trong vườn, thấy vàng trên đất, Quản Ninh xem như sành vụn, Hoa Hâm nhặt lên rồi lại bỏ. Sau có xe ngựa người quyền quý đi qua, Hoa Hâm đứng dậy xem, Quản Ninh vẫn an nhiên. (Quản Ninh) bèn cắt chiếu nói: “Từ nay không phải bạn ta nữa.”
Một chiếc chiếu bị cắt, không phải vì giận mà là vì tỉnh ngộ. Cái bị cắt đứt, không phải là tình nghĩa xưa, mà là Đạo đã khác nhau.
Vàng làm động tâm, quyền quý làm lung lay ý, Quản Ninh lấy nghĩa mà tự giữ mình. Giữa lúc tình nghĩa sâu dày nhất, vẫn có thể giữ được một phần thanh tỉnh (trong sáng, tỉnh táo), đây là tiết tháo cao nhất của “lấy nghĩa lập Đạo”.
Ông cắt chiếu không phải là tuyệt giao, mà là tự răn mình: Tình bạn của quân tử, lấy Đạo làm ranh giới. Nếu chí không đồng, tâm không sạch, thì dù ngồi chung chiếu cũng như cách chân trời.
Bạn thật không ở chỗ nhiều, mà ở chỗ không mất Đạo. Thà làm cây tùng cô độc kiêu hãnh trước tuyết, chứ không làm bèo nổi trôi theo dòng.
Bạn thật không ở chỗ nhiều, mà ở chỗ không mất Đạo. Thà làm cây tùng cô độc kiêu hãnh trước tuyết, chứ không làm bèo nổi trôi theo dòng. (Shutterstock)
Kết ngữ: Quân tử hợp nhau bằng Đạo, tình tự bền lâu
Quang Vũ và Nghiêm Tử Lăng, quý ở tương kính; Tình giao Quản-Bào, quý ở tương tri; Bá Nha Tử Kỳ, quý ở tương hợp; Quản Ninh cắt chiếu, quý ở kiên thủ. Bốn mối giao hảo này, hình thức đều khác nhau, nhưng đều quy về Đạo.
Phạm Trọng Yêm nói: “Phong thái của tiên sinh, núi cao sông dài.” Núi cao là không thể với tới; Sông dài là dòng chảy không dứt. Đây chính là hình ảnh bất hủ của “lấy Đạo mà tôn trọng nhau”: Đạo ở trong tâm, tình bạn liền có thể vượt qua thời thế và sinh tử.
Trên con đường thế tục chạy theo công lợi phù hoa ngày nay, nếu có thể lấy thành đãi nhau, lấy nghĩa làm ranh giới, lấy tâm làm đồng điệu, thì bất luận sang hèn giàu nghèo, đều có thể cùng chung phong thái với người xưa.
Núi cao sông dài, Đạo ở lòng người; Tình bạn chân thật không cần lời, mà gió thanh tự bay xa. Bạn có bốn đức: Biết nhau bằng Đạo, Giao du bằng thành, Hợp nhau bằng tâm, Giữ gìn bằng nghĩa. Người xưa kết bạn, như núi sông nhìn nhau, nghìn năm vẫn trong.
Tác giả: Hoàng Hoài
Theo Epoch Times