Tác giả: Tiết Trì
Nguyên văn: Tử viết: 「Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn bất tri nhân dã.」 (Luận Ngữ, thiên Học Nhi, chương 16)
Khổng Tử nói: “Không lo người khác không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người khác.”
【Chú thích】
- Hoạn (患): Lo lắng, ưu phiền.
- Bất kỷ tri (不己知): Không hiểu mình.
【Bàn luận】 Sách 《Luận Ngữ》 có hai mươi thiên, thiên đầu tiên là “Học Nhi”, bao quát toàn bộ cuốn sách. Thiên “Học Nhi” có mười sáu chương, chương đầu tiên viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?” (Học mà thường xuyên thực hành, chẳng phải vui lắm sao? Có bạn từ phương xa đến, chẳng phải mừng lắm sao? Người không biết đến mình mà không giận, chẳng phải là quân tử sao?). Ý tứ thật cao xa. Vậy chương cuối cùng đã kết thúc như thế nào?
Dường như có chút bất ngờ, chương cuối lại hô ứng với chương đầu tiên như thế này: “Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn bất tri nhân dã” (Không lo người khác không hiểu mình, chỉ lo mình không hiểu người khác). Tại sao việc “biết người” lại quan trọng đến vậy? Nhà nghiên cứu Tiền Mục đã đưa ra hai ví dụ: nếu không có Khổng Tử thì người đời không biết nên noi theo vua Nghiêu vua Thuấn; nếu không có Mạnh Tử thì người đời không biết Khổng Tử là bậc thánh nhân chưa từng có từ khi có loài người. Có thể thấy “biết người” là sự nghiệp ngàn thu của bậc thánh nhân.
Điều bất ngờ hơn nữa là, toàn bộ sách 《Luận Ngữ》 cũng kết thúc bằng việc “biết người” – Khổng Tử nói: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã; bất tri lễ, vô dĩ lập dã; bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.” (Không biết mệnh trời thì không thể làm người quân tử; không biết lễ thì không có gì để đứng vững; không biết lời nói thì không thể biết người.) (Luận Ngữ, thiên Nghiêu Viết). Điều này cho thấy “biết người” cũng là một yêu cầu đối với mỗi người học giả, trong đó ẩn chứa ý nghĩa sâu xa.
“Không lo người không biết mình, chỉ lo mình không biết người”, câu này thể hiện một đặc điểm căn bản trong giáo huấn của Khổng Tử: “cầu chư kỷ”, tức là hướng vào trong mà tìm, như câu “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân” (Người quân tử cầu ở chính mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người khác) (Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công). Trong cách đối nhân xử thế, không oán trời trách người, mà giữ tinh thần “người không biết mình mà không giận”, hoàn thành việc tu dưỡng nhân đức của bản thân, thành tựu sự nghiệp trong lặng lẽ.
Dĩ nhiên, được người khác biết đến vẫn là tốt nhất, nếu không thì tại sao Khổng Tử lại phải chu du liệt quốc? Có lần Tử Cống đã hỏi một cách ẩn ý: “Ở đây có một viên ngọc đẹp, nên cất trong hộp trân quý nó, hay tìm một thương nhân sành sỏi để bán đi?” Khổng Tử nói: “Bán đi chứ! Bán đi chứ! Ta đang đợi người biết giá đây!” (Luận Ngữ, thiên Tử Hãn). Công Sơn Phất Nhiễu nổi dậy ở đất Phí, mời Khổng Tử đến, Khổng Tử định đi. Tử Lộ không vui, nói: “Không có nơi nào để đi thì thôi, cớ gì phải đến chỗ họ Công Sơn?” Khổng Tử nói: “Người mời ta đến, lẽ nào lại để ta đi suông sao? Nếu có người dùng ta, ta sẽ khiến cho chính đức của nhà Chu được phục hưng ở phương Đông.” (Luận Ngữ, thiên Dương Hóa).
Thế nhưng, lịch sử đã không cho Khổng Tử cơ hội để trị quốc bình thiên hạ. Bởi vì ở đây có vấn đề về Thiên mệnh, toàn bộ tiến trình của lịch sử đều đã có sự an bài. Khổng Tử “biết Thiên mệnh”.
Nếu có thể “biết Thiên mệnh”, tự nhiên cũng sẽ có thể “biết người”. “Biết người” đòi hỏi một sự tu dưỡng rất cao. Một lần Phàn Trì hỏi về trí, Khổng Tử đáp: “Biết người.” (Luận Ngữ, thiên Nhan Uyên).
Biết người là trí tuệ. Nếu “học” trong một thời gian dài mà vẫn không thể hiểu được người khác, điều đó cho thấy công phu vẫn chưa tới. Vậy, làm thế nào mới có thể đạt đến cảnh giới biết người? Trong thiên này, Khổng Tử, Hữu Tử và Tăng Tử đã giảng rất nhiều phương pháp, như là học mà thường xuyên thực hành, hiếu đễ, không khéo nói năng hay làm vẻ mặt giả tạo, mỗi ngày xét mình ba lần, cẩn trọng và giữ chữ tín, yêu thương mọi người và gần gũi người nhân đức, giữ lòng trung tín, không kết bạn với người không bằng mình, có lỗi thì đừng ngại sửa, nhanh nhẹn trong công việc và cẩn trọng trong lời nói, tìm đến người có đạo để sửa mình, v.v.
Do đó, chương này kết thúc toàn thiên bằng câu “Không lo người không biết mình, chỉ lo mình không biết người” là một sự sắp xếp vô cùng hợp lý và chặt chẽ.
Nhân tiện cũng xin nói thêm, việc Khổng Tử nhấn mạnh “biết người” là có nguồn gốc của nó. Trong 《Đạo Đức Kinh》 của Lão Tử đã viết “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh” (Kẻ biết người là trí, kẻ biết mình là sáng). Thực ra, Khổng Tử từng cầu giáo Lão Tử, Nho gia và Đạo gia có nguồn gốc sâu xa. Nền văn minh Trung Hoa lần này bắt đầu từ Hoàng Đế, mà Hoàng Đế là người tu Đạo, cuối cùng đắc đạo bay lên trời. Thời đó chưa hề có Nho gia. Nho gia là do Khổng Tử sáng lập, giảng về đạo lý làm người. Sự khác biệt giữa Nho và Đạo, dùng lời trong sách 《Trang Tử》 để nói, chính là: Nho gia ngao du “bên trong cõi thế tục”, còn Đạo gia ngao du “bên ngoài cõi thế tục”. Đọc kỹ 《Luận Ngữ》, có thể phát hiện sách này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ 《Đạo Đức Kinh》.
Tài liệu tham khảo chính:
- 《Luận Ngữ Chú Sớ》 (bản có dấu câu Thập Tam Kinh Chú Sớ, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
- 《Tứ Thư Trực Giải》 (Trương Cư Chính, Nhà xuất bản Cửu Châu)
- 《Luận Ngữ Tân Giải》 (Tiền Mục, Nhà xuất bản Tam Liên)
- 《Luận Ngữ Dịch Chú》 (Dương Bá Tuấn, Nhà xuất bản Trung Hoa Thư Cục)
- 《Luận Ngữ Tam Bách Giảng》 (Phó Bội Vinh, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- 《Luận Ngữ Dịch Chú》 (Kim Lương Niên, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
- 《Luận Ngữ Bản Giải (bản hiệu đính)》 (Tôn Khâm Thiện, Nhà xuất bản Tam Liên)
- 《Phàn Đăng Giảng Luận Ngữ: Học Nhi》 (Phàn Đăng, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- Trọn bộ Bàn về Luận ngữ
Theo Epoch Times