Khổng Tử đã nói từ 2.500 năm trước: “Ngôn tất tín, hành tất quả” (Lời nói phải giữ chữ tín, hành động phải biết đến nhân quả). Trong văn hóa Trung Hoa, thành tín là gốc rễ để lập thân, những câu nói như “Quân tử nhất ngôn, khoái mã nhất tiên” (Lời nói của người quân tử có sức mạnh như roi da quất vào ngựa nhanh), “Một lời hứa ngàn vàng” hay “Người không có tín thì không đứng vững” đã ăn sâu vào lòng người.
Trên vũ đài quốc tế, thành tín cũng là nền tảng để xây dựng lòng tin và hợp tác giữa các quốc gia. Tuy nhiên, các hành vi ngoại giao của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lại liên tục bị chỉ trích là thiếu thành tín, khiến họ khó xây dựng được các mối quan hệ tin cậy lâu dài trên trường quốc tế.
Israel, Ukraine và Hoa Kỳ đều từng là những đối tác quan trọng của ĐCSTQ, cung cấp các hỗ trợ then chốt về kỹ thuật, kinh tế và ngoại giao, có thể coi là “ân nhân” của ĐCSTQ. Tuy nhiên, chính những quốc gia này lại cảm nhận được sự xa lánh, thậm chí là đối lập từ ĐCSTQ vào những thời điểm then chốt. Hôm nay, chúng ta sẽ nói về việc ĐCSTQ đã làm rạn nứt mối quan hệ với ba đồng minh cũ này như thế nào, để rồi trở thành “kẻ cô độc” trên vũ đài quốc tế.
Israel – Từ đồng minh thân thiết đến sự phản bội đau lòng
Trước hết hãy nói về Israel, quốc gia nhỏ bé ở Trung Đông này từng là một trong những người bạn thân thiết nhất của ĐCSTQ. Vào tháng 1 năm 1950, chỉ ba tháng sau khi ĐCSTQ cướp chính quyền, Israel đã đi đầu trong việc công nhận “Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, trở thành quốc gia đầu tiên ở Trung Đông công nhận ĐCSTQ.
Đây không phải là một hành động nhỏ, trong thời đại Chiến tranh Lạnh đó, điều này tương đương với việc tuyên bố với thế giới về sự tin tưởng dành cho ĐCSTQ! Nhưng ĐCSTQ thì sao? Họ đã trì hoãn suốt 42 năm, mãi đến năm 1992 mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel. Với thái độ “nóng lên chậm” như vậy, nếu là bạn, bạn có cảm thấy hơi lạnh lòng không?
Sự hào phóng của Israel còn vượt xa điều đó. Là một cường quốc về công nghệ quân sự ở Trung Đông, họ đã mở rộng cánh cửa với ĐCSTQ. Báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ chỉ ra rằng, Israel đã cung cấp cho ĐCSTQ tên lửa hành trình, hệ thống radar, máy bay không người lái, thiết bị ảnh nhiệt cho xe tăng, và thậm chí cả tên lửa không đối không “Python-3”, trực tiếp trang bị cho máy bay chiến đấu của ĐCSTQ! Họ còn giúp ĐCSTQ nghiên cứu và phát triển tên lửa đất đối không HQ-9, nâng cao đáng kể khả năng phòng không của Trung Quốc.
Ngoài công nghệ, nông nghiệp và kỹ thuật đổi mới của Israel cũng chảy vào Trung Quốc, tham gia thành lập “Khu đổi mới sáng tạo Trung-Israel Thường Châu”, “Khu đổi mới sáng tạo Trung-Israel Thượng Hải”, và cả “Nông trường kiểu mẫu Trung-Israel” ở Bắc Kinh và Tân Cương.
Bạn có biết khu vực sa mạc ở Ninh Hạ không? Một công ty của Israel đã mang công nghệ tưới nhỏ giọt tiên tiến đến đó, giải quyết vấn đề thiếu nước.
Năm 2007, Israel còn tham gia vào dự án khử mặn nước biển lớn nhất của Trung Quốc tại Thiên Tân. Ngay cả khi Israel xây dựng các cảng chiến lược của riêng mình – Cảng Ashdod và Cảng mới Haifa – cũng có bóng dáng của các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc.
Có thể nói, sự giúp đỡ của Israel dành cho ĐCSTQ là dốc hết ruột gan. Nhưng đến ngày 7 tháng 10 năm 2023, khi Hamas phát động cuộc tấn công khủng bố kinh hoàng vào Israel, biểu hiện của ĐCSTQ thế nào? Không chỉ không một lần công khai lên án Hamas, mà khi Israel phản công, họ còn công khai đứng về phía Hamas, chỉ trích hành động tự vệ chính đáng của Israel.
Đây là hành động gì vậy? Người Israel nhìn vào mấy chục năm cống hiến của mình, đổi lại sự phản bội như thế này, trong lòng họ sẽ đau đớn đến mức nào? Liệu có thể tin tưởng một “người bạn” như vậy nữa không?
Ukraine – Sự ruồng bỏ tàn nhẫn giữa lúc chiến hỏa
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn sang Ukraine. Sau khi Liên Xô tan rã, quốc gia này đã trở thành “ân nhân cứu mạng” cho ngành công nghiệp quân sự của ĐCSTQ.
Năm 1991, Liên Xô tan rã, Ukraine kế thừa một lượng lớn di sản công nghiệp quân sự của Liên Xô, bao gồm cả các trang thiết bị và công nghệ hàng không vũ trụ hàng đầu. Bất chấp áp lực từ Hoa Kỳ và Nga, Ukraine vẫn chọn chia sẻ những báu vật này cho ĐCSTQ.
Quan trọng nhất chính là tàu sân bay “Varyag”! Con tàu này không chỉ được bán cho ĐCSTQ, mà ngay cả bản vẽ thiết kế cũng được trao tặng, trở thành nền tảng cho tàu sân bay đầu tiên của ĐCSTQ, chiếc “Liêu Ninh”. Không có Ukraine, giấc mơ tàu sân bay của Trung Quốc có thể đã phải trì hoãn thêm nhiều năm nữa!
Sự hào phóng của Ukraine không chỉ dừng lại ở một chiếc tàu sân bay. Họ đã chuyển giao công nghệ động cơ phản lực cánh quạt, giúp ĐCSTQ nâng cao hiệu suất máy bay chiến đấu; bán nguyên mẫu Su-33, trở thành bản thiết kế cho máy bay chiến đấu trên tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc; còn cung cấp tên lửa không đối không R-27, máy bay tiếp dầu Il-78, và tàu đổ bộ đệm khí lớp “Zubr”. Tàu tiếp tế lớn nhất của ĐCSTQ “Thanh Hải Hồ” và tàu phá băng vùng cực “Tuyết Long” cũng đều có bóng dáng công nghệ của Ukraine.
Chưa kể đến các chuyên gia hàng đầu mà Ukraine cử sang, ví dụ như nhà thiết kế tàu “Varyag” và nhà thiết kế xe tăng T80 đều đã đích thân đến Trung Quốc, giúp ĐCSTQ biến bản vẽ thành hiện thực. Có thể nói, Ukraine không chỉ là nhà cung cấp, mà còn là người thúc đẩy đằng sau sự cất cánh của sức mạnh quân sự ĐCSTQ.
Nhưng vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, khi Nga ngang nhiên xâm lược Ukraine, Ukraine chìm trong khói lửa, ĐCSTQ đã làm gì? Không những không lên tiếng ủng hộ Ukraine, mà ngược lại còn tăng cường hỗ trợ cỗ máy chiến tranh của Nga. Đối với việc Nga sáp nhập bốn tỉnh miền đông Ukraine là Lugansk, Donetsk, Zaporizhzhia và Kherson, ĐCSTQ không hề có một lời lên án. Miệng thì hô hào “tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”, nhưng hành động lại hoàn toàn trái ngược.
Đây là gì? Là sự phản bội trơ tráo! Người Ukraine nhìn vào sự cống hiến của mình năm xưa, đổi lại sự thờ ơ như vậy, trong lòng họ cảm thấy thế nào?
Hoa Kỳ – Trăm năm ân tình đổi lại những cú đâm sau lưng liên hoàn
Cuối cùng, chúng ta hãy nói về Hoa Kỳ. Trong thời cận đại, quốc gia giúp đỡ Trung Quốc nhiều nhất là ai? Câu trả lời có thể bạn không ngờ tới, đó là Hoa Kỳ.
Ngay từ cuối thời nhà Thanh, Hoa Kỳ đã thể hiện thiện chí với Trung Quốc. Họ đã trả lại một phần bồi thường từ Hiệp ước Tân Sửu (Bồi thường Nghĩa Hòa Đoàn) để xây dựng Đại học Thanh Hoa, tài trợ cho lưu học sinh Trung Quốc, giúp Trung Quốc đào tạo một loạt nhân tài khoa học kỹ thuật hàng đầu.
Hoa Kỳ đã xây dựng 12 trường đại học giáo hội và hàng chục trường học chất lượng cao ở Trung Quốc. Trong số đó, Đại học St. John ở Thượng Hải lúc bấy giờ được mệnh danh là “Harvard của phương Đông”. Sau khi ĐCSTQ cướp chính quyền, vào năm 1951, trường đại học này đã bị giải thể, sáp nhập vào Đại học Sư phạm Hoa Đông, Đại học Phúc Đán và Học viện Y khoa số 2 Thượng Hải.
Hoa Kỳ cũng tài trợ cho Trung Quốc thành lập trường y khoa và bệnh viện tốt nhất là Trường Y khoa Liên minh Bắc Kinh và Bệnh viện Liên minh (Bệnh viện Hiệp Hòa), cho đến nay đây vẫn là những cơ sở hàng đầu của Trung Quốc.
Trong Chiến tranh chống Nhật, khi Trung Quốc rơi vào thời khắc nguy cấp nhất, Hoa Kỳ đã cung cấp một lượng lớn nhân lực, vật lực và tài lực, cử “Phi Hổ Đội” và Phi đội Hàng không số 14 đến trợ chiến, mở mặt trận Thái Bình Dương, dùng bom nguyên tử ép Nhật đầu hàng, và còn giúp Trung Quốc trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nếu không có Hoa Kỳ, Trung Quốc có thể đã phải trả giá bằng bao nhiêu máu và nước mắt nữa?
Ngay cả trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi các nước xã hội chủ nghĩa và các nước phương Tây đối đầu nhau, Hoa Kỳ cũng đã giúp Trung Quốc.
Những năm 1960, quan hệ Trung-Xô trở nên xấu đi. Sau sự kiện đảo Trân Bảo tháng 3 năm 1969, Liên Xô đe dọa tiến hành “cuộc tấn công hạt nhân kiểu phẫu thuật” nhắm vào ĐCSTQ. Ai đã cứu Trung Quốc? Là Hoa Kỳ! Họ đã cảnh báo trước cho ĐCSTQ, và tuyên bố với Liên Xô: “Một quả bom hạt nhân rời khỏi biên giới của các ông, Chiến tranh Thế giới thứ ba sẽ nổ ra! Tất cả các thành phố của Liên Xô đều nằm trong tầm ngắm của tên lửa hạt nhân Hoa Kỳ.” Vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Hoa Kỳ một lần nữa đã cứu Trung Quốc.
Năm 1978, khi ĐCSTQ bị “Cách mạng Văn hóa” kéo đến bờ vực sụp đổ, buộc phải tự cứu mình bằng cái gọi là “cải cách mở cửa”, Hoa Kỳ đã mở rộng cánh cửa với ĐCSTQ, dốc sức hỗ trợ về công nghệ, vốn, thị trường và nhân tài.
Những năm 1990, khi các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu lần lượt sụp đổ, ĐCSTQ đối mặt với nguy cơ mất đảng, Hoa Kỳ một lần nữa mở rộng cánh cửa với Trung Quốc.
Năm 2000, Hoa Kỳ trao cho Trung Quốc quy chế Tối huệ quốc trong thương mại; năm 2001, Hoa Kỳ đồng ý cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sau đó, đầu tư của Hoa Kỳ ồ ạt chảy vào Trung Quốc, sản phẩm của Trung Quốc được bán rộng rãi sang Hoa Kỳ. ĐCSTQ đã thu được lợi ích khổng lồ từ thặng dư thương mại với Hoa Kỳ, thậm chí trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Ba lần bội ước
Hơn một trăm năm qua, Hoa Kỳ không chiếm một tấc đất nào của Trung Quốc.
Nhưng ĐCSTQ đáp lại ân tình trăm năm này như thế nào? ĐCSTQ tuyên truyền “hận Mỹ”, “chống Mỹ” trên các phương tiện truyền thông. Khi Hoa Kỳ hứng chịu vụ tấn công khủng bố 11/9, ĐCSTQ đã hả hê.
ĐCSTQ còn bội ước hết lần này đến lần khác! Chúng ta chỉ nêu ba ví dụ trong những năm gần đây:
- Lời hứa ở Biển Đông thành lời nói suông: Năm 2015, Tập Cận Bình hứa với Obama tại Toà Bạch Ốc rằng các đảo nhân tạo ở Biển Đông “không có ý định quân sự hóa”. Kết quả thì sao? Năm 2022, Đô đốc Aquilino, Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, tiết lộ rằng ĐCSTQ đã triển khai tên lửa chống hạm, tên lửa phòng không, vũ khí laser và máy bay chiến đấu tại Đá Vành Khăn, Đá Chữ Thập và Đá Xubi, đe dọa tất cả các quốc gia xung quanh. Đây mà là “không có ý định” sao? Đây là đang tát vào mặt ai?
- Hủy kèo trong chiến tranh thương mại: Chiến tranh thương mại Trung-Mỹ năm 2018, hai bên đã đàm phán 11 vòng, thỏa thuận đạt được 90%, chỉ còn chờ ký. Kết quả, Tập Cận Bình đột ngột hủy kèo vào phút chót. Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Trump lập tức tăng cường, nâng thuế quan đối với 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc từ 10% lên 25%. Thỏa thuận thương mại giai đoạn một ký năm 2020, ĐCSTQ hứa mua thêm 200 tỷ USD hàng hóa Mỹ, nhưng thực tế chỉ mua 123 tỷ USD, lại một lần nữa thất hứa. Thỏa thuận giấy trắng mực đen còn không thực hiện, có phải là coi lòng tin như trò đùa không?
- Che giấu dịch bệnh COVID-19: Tháng 1 năm 2020, dịch COVID-19 bùng phát ở Vũ Hán. ĐCSTQ không chỉ che giấu sự thật, đàn áp các bác sĩ “thổi còi”, mà còn lan truyền lời nói dối “không lây từ người sang người, có thể phòng ngừa và kiểm soát”, để mặc cho những người mang virus bay đi khắp toàn cầu. Đến tháng 6 năm 2022, Hoa Kỳ có 1,01 triệu người chết, hơn 87 triệu người nhiễm bệnh. Năm 2024, báo cáo của Quỹ Di sản (Heritage Foundation), một tổ chức tư vấn bảo thủ của Hoa Kỳ, cho thấy dịch bệnh đã gây ra thiệt hại kinh tế 18 nghìn tỷ USD. Đây không chỉ là sự phản bội, mà còn là một thảm họa toàn cầu!
Tại sao ĐCSTQ liên tục bội tín bội nghĩa?
Ba ví dụ này thật đáng kinh ngạc. Tại sao ĐCSTQ luôn làm như vậy? Câu trả lời nằm trong ý thức hệ cốt lõi của nó: Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Lý thuyết này có ba trụ cột: Thuyết vô thần, triết học đấu tranh, và bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Không tin Thần thì không sợ “người làm Trời đang nhìn”, trời không sợ, đất không sợ; triết học đấu tranh, khiến họ đấu với trời, với đất, với người không ngừng nghỉ, coi đồng minh như con cờ; bất chấp thủ đoạn, có nghĩa là ranh giới đạo đức và pháp luật không có tác dụng ràng buộc nào đối với họ.
Lịch sử 170 năm của phong trào cộng sản quốc tế, lịch sử hơn 100 năm của ĐCSTQ, và lịch sử hơn 70 năm cầm quyền của ĐCSTQ, đều đi theo sự chỉ đạo của tư tưởng này. Đây chính là nguồn gốc của sự bội tín bội nghĩa trong ngoại giao của họ.
Thành tín là huyết mạch giữa các quốc gia, không có nó, hợp tác sụp đổ, tình bạn trở nên vô nghĩa. Những sự phản bội này không chỉ làm tổn thương các đồng minh, mà còn khiến lòng tin của toàn cầu đối với ĐCSTQ rơi xuống đáy vực.
Một quốc gia không có thành tín, có thể đi được bao xa trên trường quốc tế? Khi lòng tin bị phá vỡ hết lần này đến lần khác, thế giới sẽ nhìn nhận một quốc gia như vậy như thế nào?