MC và Chương trình Phân tích và Bình luận xin kính chào quý vị! Quý vị có bao giờ tự hỏi, tại sao một cường quốc quân sự thứ tư thế giới lại sụp đổ nhanh chóng đến vậy trước một cuộc tấn công chớp nhoáng? Điều gì đã khiến một nhà độc tài tự tin tuyên bố “không quân không thể quyết định chiến tranh mặt đất” phải chứng kiến toàn bộ lực lượng của mình tan rã chỉ trong vài tuần? Và tại sao, ngay cả những chuyên gia hàng đầu cũng không thể lý giải được phản ứng của người dân trước sự kiện lịch sử này?
Mở đầu câu chuyện là vào năm 1990, Tổng thống I-rắc Saddam Hussein cùng một nhóm thân tín tiến vào Kuwait. Quân đội của ông ta vừa chiếm đóng một quốc gia nhỏ bé giàu dầu mỏ, cùng chung một giáo phái. Các lực lượng cơ giới của Saddam trải dài hàng trăm kilomet trên sa mạc, đủ để bất kỳ nhà độc tài nào cũng phải tự hào. Saddam tự tin nói với các thân tín của mình: “Các ông biết không, không quân không thể quyết định chiến tranh mặt đất. Đây là quy luật đã được chứng minh qua mọi cuộc chiến tranh thông thường và chiến tranh giải phóng.” Ông ta gọi cuộc chiến ở Kuwait là “chiến tranh giải phóng”. Ông ta còn nói: “Nếu muốn tìm bằng chứng, tôi sẽ cho các ông một bằng chứng mới nhất, đó là cuộc chiến tranh Việt Nam mà người Mỹ đã đánh.”
Chỉ một giờ sau khi I-rắc chiếm đóng Kuwait, hàng không mẫu hạm USS Independence của Hoa Kỳ đã tiến vào vùng Vịnh. Ngay sau đó, hàng không mẫu hạm USS Eisenhower cũng tiến vào Đông Địa Trung Hải và đi qua kênh đào Suez để vào khu vực chiến sự. Lúc đó, I-rắc không hề yếu kém, được mệnh danh là cường quốc quân sự thứ tư thế giới. Họ có 950.000 quân chính quy, 5.600 xe tăng, 770 phi cơ tác chiến, và hệ thống phòng không tổng hợp hiện đại nhất Trung Đông do Liên Xô chế tạo. Quân đội I-rắc đã được rèn luyện qua tám năm chiến tranh I-rắc – I-ran, với kinh nghiệm thực chiến dày dặn.
Saddam ước tính rằng người Mỹ sợ hy sinh, sợ chết và không dám tham gia cuộc chiến này. Quả thật, lúc đó Quốc hội Hoa Kỳ yêu cầu con số cụ thể: “Ông hãy nói cho chúng tôi biết, sẽ có bao nhiêu người chết?” Khi dự đoán thương vong trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Cục Hậu cần Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã đưa ra một kết quả mô phỏng là 15.000 người chết. Điều này khiến người dân Hoa Kỳ không thể chấp nhận. Chỉ 37% người dân đồng ý Hoa Kỳ sử dụng vũ lực. Lúc đó, một phóng viên thậm chí còn truy hỏi Tổng thống George H.W. Bush: “Thưa Tổng thống, ông có đưa cháu trai mình ra chiến trường không?” Tổng thống Bush khi đó chịu áp lực rất lớn, ông phải giành được sự ủng hộ của người dân trong nước trước tiên.
Ông tuyên bố sẵn sàng giải quyết vấn đề bằng đàm phán với I-rắc để I-rắc rút quân khỏi Kuwait. Nhưng khi thấy người Mỹ đến đàm phán, bộ mặt của nhà độc tài Saddam lộ rõ. Saddam quả quyết: “Haha, quả nhiên không ngoài dự đoán. Mấy người Mỹ sợ chết không dám đánh tôi.” Ông ta liên tục trì hoãn đàm phán với Hoa Kỳ, thái độ trở nên đặc biệt cứng rắn và một lần nữa phán một câu: “Tôi sẽ không rút quân khỏi Kuwait, cửa cũng không có.”
Khi thấy Tổng thống Bush tìm kiếm giải pháp hòa bình bị chặn đứng, và nhìn thấy bộ mặt độc tài của Saddam, dư luận Hoa Kỳ đã thay đổi. Hành động quân sự chống I-rắc nhận được sự ủng hộ rộng rãi. Ba ngày sau, Quốc hội, đại diện cho ý nguyện của người dân, đã ủy quyền phát động chiến tranh chống I-rắc. Liên quân do Hoa Kỳ đứng đầu đã nâng cấp Chiến dịch Lá chắn Sa mạc thành Chiến dịch Bão táp Sa mạc và bắt đầu cuộc tấn công.
Vào tháng 1 năm 1991, ngày 16 theo giờ Hoa Kỳ, ngày 17 theo giờ địa phương, sau tối hậu thư của Nghị quyết 678 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, liên quân do Hoa Kỳ, NATO và Liên đoàn Ả Rập thành lập bắt đầu thực hiện Chiến dịch Bão táp Sa mạc. Đầu tiên là các cuộc không kích dữ dội. Chiến tranh Vùng Vịnh bùng nổ. Đây là một cuộc chiến tranh hiện đại. Các khái niệm chiến tranh và công nghệ quân sự mới nhất đã lật đổ tất cả kinh nghiệm chiến tranh trước đây. Nó mở ra chế độ chiến tranh thông tin và số hóa của thế kỷ 21 với tỷ lệ thương vong quân sự chênh lệch nhất và thiệt hại nhỏ nhất đối với dân thường. Thông qua các hành động quân sự cục bộ chính xác, nó tránh được sự tham gia quy mô lớn của chiến tranh và đạt được mục tiêu chính trị và quân sự một cách hiệu quả.
Không quân I-rắc khi đó, như chúng tôi vừa nói, không hề yếu kém. Nó được tạo thành từ các phi cơ Liên Xô tiên tiến nhất, chủ yếu là MiG-25, nhưng nhược điểm thì khá rõ ràng. MiG-29 là phi cơ thế hệ thứ ba vào thời điểm đó, nhưng ngay cả loại phi cơ thế hệ thứ ba của Liên Xô này cũng rất khó đối phó với F-15, F-16 và F-18. Ngay cả hệ thống chỉ huy không đối đất nguyên bản của Liên Xô cũng có một sự chênh lệch thế hệ so với Hoa Kỳ.
Huống hồ I-rắc còn dùng bản sao, chứ không phải bản gốc của Liên Xô. Nhưng dưới chế độ độc tài, người dân I-rắc nhận được thông tin gì? Sự khác biệt rõ ràng về quân sự đã bị che giấu, chỉ cần lừa dối người dân trong nước là đủ. Đủ để răn đe người dân của mình ngoan ngoãn tuân theo sự kiểm soát độc tài của mình. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, chẳng phải mọi thứ đều bại lộ sao?
Sau khi Chiến dịch Bão táp Sa mạc được khai triển, trực thăng vũ trang Apache của Hoa Kỳ nhanh chóng quét vào sa mạc, đột kích từ độ cao thấp và phá hủy radar cảnh báo sớm. Đồng thời, chiến đấu cơ tàng hình F-117 của quân đội Hoa Kỳ bay về Baghdad, được trang bị bom dẫn đường bằng laser với độ chính xác cực cao, giống như có mắt vậy. Một quả bom khoét một lỗ lớn vào hầm ngầm sâu dưới lòng đất, quả thứ hai theo lỗ đó mà bay xuống, nhân sự và thiết bị đều bị phá hủy. Radar của quân đội I-rắc không thể nhìn thấy F-117, không quân Hoa Kỳ như đi vào chỗ không người.
Hệ thống chỉ huy quân sự và huy động chiến tranh của I-rắc đều bị tê liệt. Đồng thời, hải quân I-rắc mất khả năng chiến đấu dưới sự tấn công của hoả tiễn hành trình từ hải quân và không quân Hoa Kỳ. Không quân I-rắc bắt đầu bỏ chạy. Thậm chí họ còn làm một việc là chôn phi cơ trong sa mạc để không bị tìm thấy và tấn công.
Từ khi chiến tranh bắt đầu đến nay, thậm chí không thấy bóng dáng của một quân nhân Hoa Kỳ nào, thật sốt ruột. Để quân đội Hoa Kỳ phải chịu thương vong, Saddam rất muốn tiến hành một cuộc quyết chiến trên bộ. Ông ta vuốt râu nghĩ ra hai chiêu hiểm. Một là đổ hàng chục nghìn thùng dầu thô vào Vịnh Ba Tư. Bạn biết đấy, sa mạc thiếu nước. Ả Rập Xê-út phụ thuộc vào hệ thống lọc nước biển đắt tiền để cung cấp nước ngọt. Chiêu này của Saddam là gây ô nhiễm nguồn nước. Bạn có thể lọc nước biển, nhưng bạn không thể biến dầu thành nước phải không? Điều này đã cắt đứt nguồn cung cấp nước của người anh em Ả Rập Xê-út. Thứ hai là đốt cháy các giếng dầu ở Kuwait.
Hai chiêu này nhằm mục đích gì? Thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, gây áp lực buộc Hoa Kỳ nhanh chóng tham gia chiến tranh mặt đất. Bởi vì nếu quân đội không tham gia, dầu sẽ không ngừng chảy, và ngọn lửa cũng không thể dập tắt, phải không? Quả nhiên, cuộc chiến mặt đất mà Saddam hằng mong đợi đã bắt đầu. Saddam chưa kịp cười đã bắt đầu khóc. Quân đoàn Dù số 18 của Hoa Kỳ tung một cú móc trái, cắt đứt đường rút lui của Vệ binh Cộng hòa I-rắc. Sau đó, xe tăng chiến đấu chủ lực Abrams của quân đội Hoa Kỳ và phi cơ A-10 của không quân bắt đầu những đợt “tác chiến không cân bằng” liên tiếp. I-rắc mất hàng nghìn xe tăng T-72 do Liên Xô sản xuất và xe tăng Kiểu 69 do Trung Quốc sản xuất, cùng hơn 1.000 xe bọc thép bị tê liệt trên đường. Quân đội Hoa Kỳ chỉ có 9 chiếc bị hư hại trong toàn bộ cuộc chiến, trong đó 7 chiếc là do bị đồng đội bắn nhầm.
Toàn bộ Chiến tranh Vùng Vịnh, liên quân chết 378 người. Quân đội I-rắc thương vong hơn 100.000 người, hơn 70.000 người bị bắt, quân đội I-rắc về cơ bản bị phá hủy. Những phi cơ bị chôn vùi trong sa mạc, bạn nói xem đào lên còn dùng được không? Không quân cũng xong rồi. Sau Chiến tranh Vùng Vịnh, Hoa Kỳ đã thiết lập chiến lược mới là đồng thời thắng hai cuộc chiến tranh cục bộ.
Chiến tranh Vùng Vịnh đã cho ĐCSTQ thấy vai trò của công nghệ thông tin trong quân đội Hoa Kỳ và sự thất bại của vũ khí kiểu Liên Xô. Liên Xô tan rã cũng trong năm Chiến tranh Vùng Vịnh này. Sau Chiến tranh Vùng Vịnh, quân đội ĐCSTQ bắt đầu cải cách quy mô lớn, dần từ bỏ hệ thống chỉ huy kiểu Liên Xô cũ và chuyển sang mô hình Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chế độ chuyên chế của Trung Quốc chỉ có thể học hỏi quân đội Hoa Kỳ về quy định, tiêu chuẩn và vũ khí trang bị, nhưng không thể học được quyền chỉ huy cốt lõi và quan trọng nhất.
Từ thời Mao Trạch Đông đến nay, cơ cấu chỉ huy hình kim tự tháp của nó nhấn mạnh điều gì? Chỉ có một người ở trên đỉnh, và bên dưới thì rất lớn. Nó nhấn mạnh sự trung thành về chính trị. Bạn phải chịu trách nhiệm trước người đứng đầu. Trước đây, Mao Trạch Đông còn lợi dụng đấu tranh phe phái trong quân đội và sự sùng bái cá nhân để quản lý quân đội.
Giờ đây, đến thời lãnh đạo Tập Cận Bình, nó đã phát triển thành một hệ thống mà ông ta ngồi cao như hoàng đế. Mọi việc liên quan đến quân đội, đặc biệt là quyền chỉ huy, đều phải thông qua ông ta. Bạn nói xem, khi chiến tranh nổ ra, một mình ông ta có thể quản lý được nhiều việc phức tạp như vậy không, khác với việc điều quân đánh trận ngày xưa. Trong chiến tranh thông tin hiện đại, một mình ông ta có thể quản lý được nhiều việc như vậy sao? Thượng tướng Lưu Á Châu của quân đội ĐCSTQ đã tự mình nói rằng, hệ thống chỉ huy hình kim tự tháp này hiệu quả trong việc duy trì sự ổn định chính trị của đất nước, nhưng lại khó đối phó với chiến tranh hiện đại, đặc biệt là chiến tranh thông tin. Dù bỏ bao nhiêu tiền để phát triển vũ khí trang bị, dù có học lén Hoa Kỳ, cuối cùng, sứ mệnh của quân đội ĐCSTQ đã quyết định rằng nó không đặt việc giành chiến thắng trong bất kỳ cuộc chiến nào lên cao hơn việc duy trì an ninh chính trị. Giáo sư Mastro, Trợ lý về các vấn đề quốc tế tại Đại học Georgetown của Hoa Kỳ, đã nói rằng quân đội Trung Quốc sẽ không bao giờ nhận được sự ủng hộ rộng rãi của xã hội như quân đội Hoa Kỳ, trừ khi Quân Giải phóng Nhân dân không còn được phái đi trấn áp chính người dân của mình.
Nói về quân nhân Hoa Kỳ, dù đang tại ngũ hay đã giải ngũ, họ đều được hưởng phúc lợi rất tốt. Bạn được ưu tiên khi vào đại học, tìm việc làm, và vay tiền mua nhà cũng rẻ hơn. Có cả hiệp hội cho vay dành riêng cho quân nhân. Quân nhân sống rất đàng hoàng và được xã hội tôn trọng. Điều này hoàn toàn trái ngược với cảnh các cựu chiến binh ở Trung Quốc đại lục phải cầm gậy, cầm gộc để tập trung bảo vệ quyền lợi của mình.
Ở đây, chúng ta phải nhắc đến một nhân vật hài hước, đó là Giáo sư Trương Triệu Trung của Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Trên truyền hình, ông ta đã giải thích những cuộc chiến tranh này cho hơn một tỷ người Trung Quốc. Điều thú vị là kết quả của cuộc chiến này lại trái ngược với phân tích của ông ta. Ông ta dự đoán rằng người dân I-rắc sẽ kháng cự ngoan cường, và mỗi con hẻm ở Baghdad sẽ trở thành cơn ác mộng của quân đội Hoa Kỳ. Nhưng Sư đoàn Bộ binh số 4 của Hoa Kỳ đã chiếm được Baghdad mà không bắn một phát súng nào. Người dân I-rắc không kháng cự mà còn chủ động tiến lên và lật đổ tượng Saddam. Trương Triệu Trung nói: “Ôi trời ơi, tôi không hiểu nổi, không hiểu nổi!”
“Người khác xâm lược bạn, sao các bạn lại làm nô lệ mất nước như vậy?” Người I-rắc không nghĩ vậy. Chiến tranh sẽ không làm tiêu vong quốc gia I-rắc cổ xưa trên bình nguyên Mesopotamia. Hoa Kỳ đã lật đổ chỉ là một chế độ độc tài, tàn bạo và tham nhũng. Trương Triệu Trung và các đồng nghiệp của ông ta không hiểu, nhưng người dân thì hiểu rất rõ. Họ yêu đất nước này, chứ không phải chế độ này.