[ Tứ liên huyết nguyệt có phải là bất thường? (Phần 2) ]
Tác giả: Nhậm Thục Nhất
Từ phần trước, «Tứ Liên Huyết Nguyệt có phải là bất thường? (1) Ví dụ thu hút nhất trong lịch sử», qua việc xem xét các sự kiện lịch sử trọng đại xảy ra tương ứng với hiện tượng “Tứ Liên Huyết Nguyệt” (Chuỗi 4 Trăng Máu) trong lịch sử Do Thái, có thể thấy rất rõ rằng huyết nguyệt là điềm báo cho các cuộc xung đột chiến tranh và sự khởi đầu của một trang sử mới. Sự tương ứng mạnh mẽ như vậy liệu có phải là “sự trùng hợp” ngẫu nhiên ở một quốc gia hay một vùng đất nào đó? Hay còn có những “sự trùng hợp” khác tương ứng? Từ xa xưa, văn hóa truyền thống Trung Hoa đã rất coi trọng “nguyệt biến” (sự thay đổi của mặt trăng), bao gồm cả hiện tượng thiên văn huyết nguyệt. Quả nhiên, trong thời kỳ biến động lớn nhất của lịch sử Trung Quốc cũng đã xuất hiện “Tứ Liên Huyết Nguyệt”. Chúng ta hãy cùng tiến thêm một bước để vén lên bức màn lịch sử.
Văn hóa truyền thống Trung Hoa nhìn nhận huyết nguyệt như thế nào?
Sách «Chu Dịch Yêu Chiêm» của Kinh Phòng thời nhà Hán viết: “Mặt trăng đổi màu… màu đỏ là điềm báo của tranh chấp và chiến tranh”, “Khí đỏ bao trùm mặt trăng, như ánh máu, sẽ có đại hạn, người dân đói kém ngàn dặm”. Đại sư tinh chiếm học Lý Thuần Phong thời nhà Đường trong sách «Ất Tị Chiêm» cũng nói: “Nếu mặt trăng đổi màu, sẽ có tai ương”, “màu đỏ là điềm báo của tranh chấp và chiến tranh”, và khi trăng đổi màu thì “đất đỏ ngàn dặm, nước đói kém lớn, người dân ăn thịt lẫn nhau”. Phòng Huyền Linh trong «Tấn thư – Thiên văn chí» viết: “Mặt trăng đổi màu, sẽ có tai ương”; Ngụy Trưng trong «Tùy thư – Thiên văn trung» cũng có cách nói tương tự.
Từ những điều trên có thể thấy, trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, “huyết nguyệt” – một dạng “nguyệt biến” – không được xem là hiện tượng tự nhiên thông thường mà là một điềm báo chẳng lành, một dự báo về tai họa. “Mặt trăng đổi màu thành đỏ” đặc biệt ứng với binh biến và các loại tai họa như hạn hán, đói kém. Những “điềm báo nguyệt biến” này mà các thánh hiền Trung Hoa xưa chỉ ra đã tương ứng với những sự kiện nào trong lịch sử Trung Quốc thế kỷ 20? Chúng ta hãy cùng xem xét kỹ hơn dưới đây:
Sự tương ứng giữa lịch sử Trung Quốc thế kỷ 20 và các chuỗi Tứ Liên Nguyệt Thực
Vào thế kỷ 20, đã có năm chu kỳ “Tứ Liên Huyết Nguyệt” xảy ra liên tiếp (tổng cộng 20 lần), đây là một hiện tượng hiếm thấy về mặt thiên văn. Trong thế kỷ trước đó (thế kỷ 19), không có lần nào “Tứ Liên Huyết Nguyệt” xảy ra, thậm chí có khi 300 năm cũng không có lần nào, ví dụ như từ thế kỷ 17 đến 19.
Thế kỷ 20 là một thời đại đặc biệt với những biến động lớn của Trung Quốc, và đó là một biến động lớn của 5000 năm – chế độ quân chủ đã đi vào lịch sử! Cùng với sự trỗi dậy của chế độ dân chủ cộng hòa, các vấn đề mới cũng nối tiếp nhau xuất hiện. Nền Dân Quốc vừa mới thành lập đã phải đối mặt với hàng loạt loạn lạc và tai họa, gần như cùng lúc đó lại gặp phải kiếp nạn từ tư tưởng và súng đạn của chủ nghĩa cộng sản, lật đổ hoàn toàn văn hóa truyền thống Trung Hoa cùng với nhân tâm và đạo đức của người Trung Quốc. “Trùng hợp” thay, trước khi những biến động này xảy ra, đều xuất hiện “Tứ Liên Nguyệt Thực”. Dưới đây, chúng ta hãy cùng phân tích và kiểm chứng năm chu kỳ “Tứ Liên Nguyệt Thực” trong thế kỷ 20 và các sự kiện lịch sử trọng đại tương ứng của Trung Quốc.
1. Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực đầu tiên của thế kỷ 20 và sự kiện lịch sử lớn tương ứng của Trung Quốc
Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực đầu tiên của thế kỷ 20 và tình hình quan sát được tại Trung Quốc:
- 04/06/1909 (định dạng ngày/tháng, sau đây tương tự): Trung Quốc không quan sát được; 27/11: Trung Quốc quan sát được.
- 24/05/1910: Trung Quốc không quan sát được; 17/11: Trung Quốc quan sát được.
Vào ngày 10 tháng 10 năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, tạo ra một cơn sóng lớn lật đổ xã hội quân chủ truyền thống. Trước đó, trong những năm 1909–1910 (năm Tuyên Thống thứ nhất và thứ hai), vừa hay có một chu kỳ Tứ Liên Huyết Nguyệt. Giai đoạn này trùng với thời kỳ biến động lớn cuối cùng của triều đại nhà Thanh, với thiên tai, sự áp bức của các cường quốc, các phong trào cách mạng quốc gia và khủng hoảng kinh tế xảy ra dồn dập.

2. Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ hai của thế kỷ 20 và sự kiện lịch sử lớn tương ứng của Trung Quốc
Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ hai của thế kỷ 20 và tình hình quan sát được tại Trung Quốc:
- 15/06/1927: Chỉ có vùng ven biển phía đông và một phần đông bắc Trung Quốc quan sát được; 08/12: Trung Quốc quan sát được.
- 03/06/1928: Trung Quốc quan sát được; 27/11: Trung Quốc quan sát được.
Những năm 1927–1928 (Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 16, 17): Đây là giai đoạn then chốt trong quá trình thống nhất và thành lập Trung Hoa Dân Quốc, là giai đoạn cuối cùng của cuộc Bắc phạt thắng lợi do quân cách mạng của Chính phủ Quốc dân thực hiện. Đồng thời, đây cũng là lúc Đảng Cộng sản bắt đầu gây rối và tạo ra bất ổn trong nước.
- Ngày 1 tháng 8 năm 1927, “Cuộc nổi dậy Nam Xương”: Đảng Cộng sản Trung Quốc vũ trang chống lại Chính phủ Quốc dân, mở màn cho cuộc nội chiến Quốc-Cộng.
- Ngày 11 tháng 12 năm 1927: Đảng Cộng sản phát động chính biến tại Quảng Châu, thành lập “Công xã Quảng Châu”, nhưng thất bại sau 3 ngày, hàng nghìn người chết. Đảng Cộng sản chuyển hướng phát triển về các căn cứ ở nông thôn.
- Ngày 4 tháng 6 năm 1928, Sự kiện Hoàng Cô Truân: Lãnh đạo quân phiệt Phụng hệ, lúc đó là Đại Tổng thống của Chính phủ Bắc Dương, Trương Tác Lâm, bị quân Quan Đông Nhật Bản ám sát bằng bom tại Hoàng Cô Truân, cho thấy tham vọng của Nhật Bản can thiệp vào tình hình đông bắc Trung Quốc, sau này đã lập ra nhà nước bù nhìn Mãn Châu Quốc vào năm 1932.
- Năm 1928 (Dân Quốc năm thứ 17), Cam Túc mất mùa, tiếp theo là hạn hán vào đầu năm sau và bão tuyết vào cuối năm, dẫn đến năm Dân Quốc thứ 18 không thu hoạch được gì, gây ra cái chết của hàng triệu người ở Thiểm Tây, Hà Nam và Cam Túc.
3. Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ ba của thế kỷ 20 và sự kiện lịch sử lớn tương ứng của Trung Quốc
Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ ba của thế kỷ 20 và tình hình quan sát được tại Trung Quốc:
- 13/04/1949: Trung Quốc không quan sát được; 07/10: Miền tây Trung Quốc quan sát được.
- 02/04/1950: Trung Quốc quan sát được; 26/09: Trung Quốc không quan sát được.
Chuỗi Tứ Liên Huyết Nguyệt này lần đầu xuất hiện vào ngày 13 tháng 4 năm 1949. Từ ngày 20 tháng 4, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động Chiến dịch vượt sông Trường Giang, huy động khoảng 1 triệu quân, chiếm Nam Kinh vào ngày 23 tháng 4, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thực sự sụp đổ.
Lần huyết nguyệt thứ hai xuất hiện vào ngày 7 tháng 10 năm 1949. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 7 tháng 12 năm 1949 tuyên bố di dời từ Trung Quốc đại lục đến Đài Loan. ĐCSTQ do Liên Xô chống lưng đã hoàn toàn chiếm đoạt Trung Quốc, tắm máu Thần Châu, người dân Trung Quốc mất đi văn hóa Thần truyền, sinh mệnh bị ma quỷ vô thần chà đạp cho đến ngày nay.
Năm 1950, ĐCSTQ bắt đầu thực hiện kiểm soát toàn trị trong nội bộ. Tháng 6 năm 1950, dưới danh nghĩa cải cách ruộng đất, họ đã tiêu diệt tầng lớp địa chủ và trật tự đạo đức truyền thống của xã hội nông thôn, khiến hàng triệu người chết bất thường. Tháng 10 năm 1950, họ phát động “Phong trào trấn áp phản cách mạng” để đàn áp và tiêu diệt những người bất đồng chính kiến. Sau đó là một loạt các chiến dịch khủng bố, các cuộc “trấn áp phản cách mạng” rầm rộ diễn ra để củng cố nền tảng độc tài chuyên chế.
4. Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ tư của thế kỷ 20 và sự kiện lịch sử lớn tương ứng của Trung Quốc
Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ tư của thế kỷ 20 và tình hình quan sát được tại Trung Quốc:
- 24/04/1967: Trung Quốc quan sát được; 18/10: Trung Quốc quan sát được.
- 13/04/1968: Trung Quốc không quan sát được; 06/10: Trung Quốc quan sát được.
Từ năm 1962 đến 1976, Mao Trạch Đông đã phát động “Đại Cách mạng Văn hóa”. Trong đó, giai đoạn từ 1966 đến 1968 là thời kỳ hồng vệ binh, là giai đoạn hỗn loạn và bạo lực của thời kỳ đầu Cách mạng Văn hóa. Các phong trào đấu tranh giai cấp diễn ra không ngừng, sự sợ hãi và sùng bái cuồng tín giam cầm tư tưởng, dối trá kích động hận thù, đấu tranh làm nhiễm độc lòng người, khiến nhân tính trở nên hung bạo tàn nhẫn, hủy diệt nhân tính và hãm hại lẫn nhau. Cứ như vậy, những hành động đi ngược lại đạo lý đã tạo ra một vòng tuần hoàn giết chóc, phá hủy đạo đức và nhân tính của người Trung Quốc hết lần này đến lần khác, để lại một kiếp nạn lịch sử khó phai mờ, mọi mặt của xã hội đều bị tàn phá, gây ra tai họa vô cùng. Những đức tính truyền thống như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín bị coi là phản động và bị miệt thị; những hành vi ôn, lương, cung, kiệm, nhượng bị đàn áp tàn bạo, đạo đức toàn dân suy đồi, xã hội xuống cấp, lừa lọc lẫn nhau, mỗi người Trung Quốc đều rơi vào vòng xoáy ma quỷ hãm hại lẫn nhau, văn minh nhân loại bị phá hoại.
5. Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ năm của thế kỷ 20 và sự kiện lịch sử lớn tương ứng của Trung Quốc
Chu kỳ Tứ Liên Nguyệt Thực thứ năm của thế kỷ 20 và tình hình quan sát được tại Trung Quốc:
- 04/05/1985: Trung Quốc quan sát được; 28/10: Trung Quốc quan sát được.
- 24/04/1986: Trung Quốc quan sát được; 17/10: Trung Quốc quan sát được.
- Tháng 10 năm 1985: Nữ hoàng Anh Elizabeth II ký “Tuyên bố chung Trung-Anh về vấn đề Hồng Kông”, xác nhận Hồng Kông sẽ trở về Trung Quốc vào ngày 1 tháng 7 năm 1997, gieo mầm cho sự sụp đổ tự do của Hồng Kông và tình trạng nhân quyền ở Trung Quốc ngày càng tồi tệ hơn.
- Tháng 12 năm 1985: Sinh viên sau đại học của Đại học Đồng Tế gửi thư cho Hồ Diệu Bang; từ ngày 5 tháng 12 năm 1986 đến ngày 2 tháng 1 năm 1987, “Phong trào sinh viên 86” bùng nổ trên toàn quốc. Sinh viên kêu gọi cải cách chính trị, đưa ra các khẩu hiệu “cần dân chủ, cần tự do, cần nhân quyền, chống quan liêu, chống tham nhũng”. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1987, hàng chục sinh viên bị bắt tại Quảng trường Thiên An Môn. (Ngày 26 tháng 4, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận, xác định phong trào sinh viên là “bạo loạn”). Đây có thể coi là khúc dạo đầu cho sự kiện thảm sát Thiên An Môn “Lục Tứ” sau này. (Tương phản, ở Đài Loan, vào năm 1986, Đảng Dân chủ Tiến bộ được thành lập ngoài Quốc Dân Đảng, đang tiến đến trước thềm dỡ bỏ thiết quân luật vào năm 1987.)
Lời kết
Không phải mọi thảm họa trên thế gian đều có điềm báo huyết nguyệt, nhưng sự xuất hiện của huyết nguyệt quả thực là một lời cảnh báo. Sau khi huyết nguyệt xuất hiện, thường có tai biến, đặc biệt là sau chuỗi Tứ Liên Huyết Nguyệt hiếm thấy, thường xảy ra những sự kiện lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội và quốc gia. Vì vậy, chúng ta có thể coi huyết nguyệt là một “tín hiệu cảnh báo” trước khi có biến cố xảy ra.
Văn hóa truyền thống Trung Hoa cho rằng sự biến đổi của mặt trăng thành huyết nguyệt là một “điềm báo” tai ương chẳng lành. «Hậu Hán thư – Ngũ hành lục» chỉ ra: “Sự thiên bất cẩn, tắc nhật nguyệt xích”, nghĩa là nếu con người không kính trọng Trời, làm người trái với Thiên đạo, thì sẽ xuất hiện dị tượng mặt trời mặt trăng biến thành màu đỏ. Hán Linh Đế từng hỏi đại thần Thái Ung phải làm thế nào? Thái Ung tâu rằng hoàng thượng phải chỉnh đốn trên dưới, tu thân dưỡng tâm, trừ âm扶dương hành chính nghĩa, vì công quên tư thì mới có thể được cứu. (Trích «Thái Trung Lang tập – Quyển bảy»). Quả thực, câu “vì công quên tư” đã nói trúng vào trọng điểm! Nguồn gốc của mọi tai họa đều nằm ở chữ “tư”; thu nhỏ từ hệ thống lớn đến cá nhân, cách đối phó để tránh họa cũng nhất quán như vậy.
Chú thích tham khảo:
- “Huyết nguyệt” là hiện tượng thiên văn xảy ra khi có nguyệt thực toàn phần. Khi nguyệt thực toàn phần, mặt trăng hoàn toàn bị bóng của Trái Đất che khuất, nhưng ánh sáng đỏ trong quang phổ của mặt trời dễ dàng xuyên qua bầu khí quyển Trái Đất và khúc xạ chiếu lên mặt trăng, lúc này mặt trăng trông có màu đỏ sẫm, thường được gọi là “huyết nguyệt”.
- “Tứ Liên Huyết Nguyệt” (Tetrad) là hiện tượng bốn lần nguyệt thực toàn phần xảy ra liên tiếp, mỗi lần cách nhau sáu tháng, và giữa chúng không có nguyệt thực một phần. Bốn lần nguyệt thực toàn phần này được gọi chung là một chu kỳ “Tứ Liên Huyết Nguyệt”.
Nguồn tài liệu tham khảo về huyết nguyệt: Danh mục 5000 năm nguyệt thực của NASA.
Theo Epoch Times