Cố Cung tại Bắc Kinh xa xưa được gọi là Tử Cấm Thành. Nó là công trình kiến trúc cổ đại bằng gỗ hoàn chỉnh nhất và lớn nhất trên thế giới.

Tử Cấm Thành cũng được coi là khu vườn hoàng gia lớn nhất được lưu lại từ thời cổ đại, nổi tiếng trong và ngoài nước. Nơi đây từng có 24 vị hoàng đế Trung Hoa sinh sống, là hoàng cung của hai triều đại nhà Minh Thanh (1368 – 1912). Đây có thể coi là kiệt tác kiến trúc cổ đại huy hoàng nhất trên thế giới. 

Tương truyền, hoàng đế Vĩnh Lạc thời nhà Minh trong những năm đầu khi xây dựng chính quyền, đã xây dựng và tu sửa Cố Cung ở phương bắc và núi Võ Đang ở phương nam. Bởi vậy, những công trình kiến trúc ở hai khu vực này đều thuộc về cùng một thời đại. Tuy nhiên, phong cách kiến trúc tại Cố Cung và Núi Võ Đang có sự khác nhau rất lớn.

Điểm tương đồng và khác biệt của Tử Cấm Thành và Tử Tiêu Cung

 Nhìn nhận từ góc độ thi công, Cố Cung được xây dựng ở đồng bằng, bình địa, còn địa hình núi Võ Đang lại tương đối phức tạp. Nhìn nhận từ góc độ phong cách kiến trúc, các trục đối xứng các đường chỉ đều rất rõ ràng, tỉ mỉ chặt chẽ, ngay ngắn hợp quy tắc, là lối kiến trúc với phong cách phô diễn ở vùng đất bằng phẳng.

Còn công trình trên núi Võ Đang được thi công trên vách đá dựng thẳng đứng, tận dụng địa thế dựa vào núi, thuận theo tự nhiên, thể hiện tư tưởng Thiên Nhân hợp nhất và sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên của Đạo gia. Cố Cung là nơi hoàng đế xử lý những việc quốc gia đại sự. Còn núi Võ Đang là điện thờ nơi triều đình cúng tế Chân Vũ Đại Đế. Vào thời cổ đại, rất nhiều vị quan triều đình cùng những tín đồ Phật giáo, Đạo giáo đều tới đây cầu khẩn Chân Vũ Đại Đế để mong cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. 

Võ Đang còn được gọi là núi Thái Hòa, núi Huyền Nhạc, nằm ở phía nam thành phố Thập Yển, tây bắc của tỉnh Hồ Bắc, phía bắc thông với núi Tần Lĩnh, phía nam tiếp giáp với ngọn Ba Sơn.

Theo Thái Hoà sơn chí, cuối thời Đông Hán, sau khi Đạo giáo xuất hiện, núi Võ Đang được tôn là Tiên sơn, Đạo sơn, Trung Hoa Đạo giáo đệ nhất sơn. Theo truyền thuyết, hai chữ “Võ Đang” lấy từ câu: “Phi chân võ bất túc dĩ đang chi”, ý tứ là không phải chân võ thì không đủ tư cách để ở lại. Đa số tên gọi khác của núi Võ Đang đều có nguồn gốc từ Đạo giáo cùng với việc thờ phụng Thần Tiên, cho nên núi còn được gọi là “Đệ nhất tiên sơn”. Tương truyền rằng, vào thời thượng cổ, đây là nơi Chân Vũ Đế đã đắc Đạo phi thăng.

Truyền thuyết kể rằng, thái tử Chân Vũ của vương quốc Tịnh Lạc thời cổ đại vào núi Võ Đang tu đạo năm ông 15 tuổi. Bởi ý chí không kiên định nên muốn xuống núi về nhà. Trên đường xuống núi, ông gặp một bà lão đang ngồi mài thanh sắt bên cạnh một cái giếng liền hỏi bà cụ đang làm gì? Bà lão đáp: “Kiên trì mài sắt có thể thành kim, có chí thì nên, bỏ công sức tất sẽ có thành quả”. Thái tử lập tức tỉnh ngộ, quay lại núi tu hành và tu thành đắc đạo, trở thành Chân Vũ Đại Đế của Đạo giáo.

Sau này, Võ Đang trở thành danh sơn nổi tiếng của đạo giáo. Các triều đại trong lịch sử đều có người đến núi Võ Đang xây dựng am, dốc lòng tu luyện như Doãn Hỉ triều nhà Chu, Âm Trường Sinh triều nhà Hán, Tạ Doãn triều nhà Tấn, Lữ Thuần Dương triều nhà Đường, Tịch Nhiên Tử triều nhà Tống, Y Cát của triều nhà Chu, Tạ Sung của triều nhà Tấn, Trần Cật của Ngũ Đại, Trương Tống Thanh triều đại nhà Nguyên và nổi danh nhất là Trương Tam Phong đời nhà Minh. Ông đã sáng lập “Võ Đang quyền thuật” tại đây và cùng với võ công của Thiếu Lâm nổi danh hậu thế. 

Vị Trí núi võ đang trên bản đồ Google Map.

Năm 627 – 649 niên hiệu Trinh Quán triều nhà Đường, thiên hạ gặp phải đại nạn. Vua Đường Thái Tông đã phái người lên núi Võ Đang cầu mưa. Sau khi cầu mưa linh nghiệm, Hoàng đế đã “phong sơn”, xây dựng “Ngũ Long từ” trên núi Võ Đang. Thời Tống, Nguyên, các kiến trúc không ngừng được xây dựng tăng thêm.

Sau khi Minh Thành Tổ Chu Đệ đăng cơ thành công vào năm Vĩnh Lạc thứ 11 (năm 1413), tự cho rằng đã được Chân Vũ Đại Đế bảo hộ. Bởi vậy cùng với việc tu sửa xây dựng Cố Cung, Hoàng đế đã thực hiện việc tu sửa, xây dựng chưa từng có trên núi Võ Đang. Ông phái Công bộ thị lang Quách Cẩn cùng 300.000 nhân công, thợ thủ công dành thời gian 12 năm để xây dựng quần thể kiến trúc quy mô lớn. Quần thể kiến trúc hùng vĩ đã hình thành bao gồm: 8 cung, 2 quán, 36 am đường, 72 nham miếu, cùng với 39 cầu, 12 đình đài và “Thần đạo” lên núi được lát toàn đá xanh. Diện tích kiến trúc lên tới 160 vạn m2 và kéo dài hơn 70 cây số. Từ đó, núi Võ Đang trở thành trung tâm Đạo giáo của khu vực, Hoàng đế các triều đại đều hết sức tôn sùng.

Toàn bộ danh thắng gồm có 72 đỉnh, 36 hang, 24 khe, 11 động, 3 đầm, 9 suối, 10 ao, 9 giếng, 10 thạch, 9 đài. Đặc biệt là “72 đỉnh” trổ lên từ mặt đất vô cùng hùng vĩ. Trong đó “Thiên trụ phong” là đỉnh chính, độ cao so với mực nước biển là 1.612m, vươn thẳng trong mây, được gọi là “nhất trụ kình thiên” (cột trụ chống trời).

Huyền Nhạc Môn, cổng chính của núi Võ Đang là một cổng vòm bằng đá cao 20 mét, rộng 13 mét, ba gian, bốn trụ, năm tầng trên có khắc bốn chữ “Trị Thế Huyền Nhạc”, khí thế phi phàm, uy vũ trang nghiêm. Toàn bộ công trình kiến trúc đều được làm bằng đá chạm khắc tinh tế, có giá trị nghệ thuật rất cao. Từ Huyền Nhạc Môn đến Kim Đỉnh ‘Thần đạo” đều được lát bằng những phiến đá xanh. 

Đi vào Huyền Nhạc Môn 1km có thể nhìn thấy Ngộ Chân Cung. Đây là nơi Trương Tam Phong từng dựng am sinh sống. Hai hoàng đế Chu Nguyên Trương và Chu Đệ đều muốn triệu kiến ông, nhưng ông đều vân du bốn phương, tránh không gặp mặt, người đời gọi ông là Chân Tiên. Đây là lý do Ngộ Chân Cung được xây dựng, bên trong có tượng Trương Tam Phong bằng đồng, hình tượng sống động, thần thái tự nhiên, phiêu đãng như một tiên nhân. Cách đó không xa là Ngọc Hư Quan, tương truyền thủ lĩnh Lý Tự Thành của cuộc khởi nghĩa nông dân cuối thời nhà Minh từng hạ trại tại đây. 

Trong kinh điển của Đạo giáo có nhiều ghi chép về nguồn gốc của sông Kiếm và Cửu Độ Giản trong núi Võ Đang. Tương truyền, khi Chân Vũ Đế vẫn còn là thái tử Tịnh Lạc Quốc và quyết tâm vào núi Võ Đang tu đạo, mẹ ông là hoàng hậu Thiện Thắng vì không yên lòng nên dẫn theo binh lính đuổi theo, mong ép buộc ông quay về. Hoàng hậu đuổi tới nơi, nắm được áo bào của thái tử. Vì không thể giãy giụa và thoát ra, ông bèn dùng Thất tinh kiếm được Ngọc Hoàng đại đế ban tặng cắt đứt  áo bào, lại dùng kiếm vạch lên mặt đất một cái, vẽ ra một con sông, chia cắt ông với mẹ mình, nên dòng sông này được gọi là sông Kiếm. Nước tuôn trào mãnh liệt không làm hoàng hậu sợ hãi, bà sai 9 binh lính một lần lượt vượt sông nhưng không qua được, nên nơi đây cũng được gọi Cửu Độ Giản.  

Tử Tiêu Cung (ảnh: Wikipedia).

Tử Tiêu Cung là một trong những ngôi miếu hoàn chỉnh nhất được bảo tồn nguyên vẹn trên núi Võ Đang, cũng là quần thể kiến trúc giống với Cố Cung của Bắc kinh nhất. Đây là quần thể kiến trúc cổ quy mô hùng vĩ nhất trên núi, bảo tồn nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu nhất của Đạo giáo. Điểm khác biệt giữa nơi đây và Cố Cung của Bắc Kinh đó là những công trình kiến trúc trong Tử Cấm Thành đều là tường đỏ ngói vàng, còn ở Võ Đang là tường đỏ ngói xanh. Nguyên nhân vì vào thời Trung Hoa cổ đại, chỉ có hoàng đế mới được sử dụng ngói vàng. 

Kim điện trên đỉnh Thiên trụ phong, đỉnh cao nhất của núi Võ Đang, được xây dựng vào năm Vĩnh Lạc thứ 14 đời nhà Minh (năm 1416). Đây được xưng là tinh hoa trong quần thể kiến trúc ở Võ Đang. Chiều ngang và chiều sâu của Kim điện đều có 3 gian, điện cao 5,5m, rộng 5,8m, sâu 4,2m, dát vàng, cấu kiện ráp mộng mà thành, là kiến trúc bằng đồng và vàng lớn nhất hiện còn ở Trung Quốc. Trong Kim điện thờ tượng Chân Võ Tổ Sư Đại Đế bằng đồng mạ vàng, nặng khoảng 10 tấn, hai bên có tượng Kim đồng bưng sổ, Ngọc nữ bưng ấn. Hai tướng Thuỷ Hoả cầm cờ bưng kiếm, góc cờ như lay động, bảo kiếm rút khỏi vỏ, thần thái rất sống động. Nền điện là bệ đá xây bằng đá hoa cương, xung quanh có lan can chạm khắc, rất trang nghiêm và rực rỡ.

Câu chuyện về hòn đá thử lòng ở núi Võ Đang

Trên núi Võ Đang có một vực thẳm vô cùng hiểm trở, vách núi bên vực thẳng đứng lên trời cao. Đây chính là “vực Phi Thăng” nổi danh.  Vách núi ấy có một tảng đá lớn nhô lên gọi là “Thí Tâm thạch” (đá Thử Lòng). Xung quanh tảng đá này có một câu chuyện như thế này:

Tương truyền lâu lắm rồi, tại làng kia có hai anh em sinh đôi giống nhau như đúc. Người anh trung hậu lương thiện hay giúp đỡ người khác còn người em lười biếng, hết ăn rồi lại nằm, có tính tắt mắt, ăn trộm.

Ngày nọ, biết tin gia đình hàng xóm đi xa đêm đó người em lẻn vào nhà định ăn trộm. Chẳng ngờ, vừa ngó đầu vào bị chủ nhà nấp sau cánh cửa đâm mù mắt trái. Thấy em như vậy, người anh khuyên nhủ mong em cải tà quy chính làm người tốt. Vì đau đớn, người em đồng ý thay đổi và theo anh lên núi Võ Đang thề nguyện bày tỏ tâm ý của mình. 

Trên đường đi, họ gặp một ông lão râu tóc bạc phơ, lưng còng, đang cõng túi đồ nặng trĩu. Ông nói với họ: “Trước đây ta vốn là kẻ trộm, nay muốn làm người tốt nên mang hết báu vật lên dâng cho Chân Vũ Đại Đế, để làm tiền nhang khói”. 

Nghe vậy, người em cũng thuật lại những điều từng làm với ông lão và quyết tâm hối cải. Ông lão nói với anh ta: “Thần tiên rất mến mộ những người thực sự biết sai mà sửa. Còn người ngôn hành bất nhất thì tất sẽ bị trừng phạt và không để ý”. 

Khi đang trò chuyện, hai thỏi vàng từ trong túi ông lão đang cầm rơi ra. Nhìn thấy ánh sáng lấp lánh, người em nổi lòng tham và toan tính. Không ngờ, người anh chạy tới nhặt lên và trả lại cho ông lão. Thấy vậy, ông nói với người anh: “Cậu là người lương thiện, số vàng này lão tặng cậu”. Người anh từ chối với lý do “không làm thì không hưởng” và bị người em mắng xối xả vì “ngu dốt”. 

Ba người tiếp tục men theo con đường nhỏ đi lên núi. Người anh luôn theo sát ông cụ để đỡ hộ ông còn người em thì âm thầm nghĩ cách làm sao để số báu vật kia là của mình. Khi tới vực Phi Thăng, ông lão nói: “Ta vừa mệt vừa khát, muốn nghỉ một lát”. Thấy vậy, người anh đi tìm nước uống và nhân cơ hội này người em đẩy ông lão xuống vực. 

Khi trở về không thấy ông cụ đâu, người anh gặng hỏi nhiều lần người em mới kể lại đầu đuôi sự việc. Cảm thấy vô cùng hối hận và xấu hổ vì tin em đã cải tà quy chính mà để ông lão chết oan, người anh bèn nhảy xuống vực sâu vạn trượng. Đang lúc người em vui mừng vì mình được sở hữu toàn bộ số của cải của ông lão, anh ta phát hiện đó toàn là đá. 

Đột nhiên, trong không trung vang lên tiếng cười của ông lão. Anh ta ngẩng đầu lên thấy ông lão và anh trai đang ở trên chín tầng mây xanh. Ông chỉ vào chiếc túi, biến nó thành tảng đá lớn và nói: “Thứ mà ta vác trên lưng không phải là bảo bối hay châu báu mà là Thí Tâm Thạch (Đá thử lỏng). Từ đó, câu chuyện được lưu truyền đến ngày nay. 

Theo Quý Minh, Secret China
Kiên Định biên dịch

Video: Con đường sáng cho một sinh mệnh lạc lối

videoinfo__video3.dkn.tv||23ecf54f2__