Tác giả: Tiết Thi

Tử viết: “Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu.” (Sách Luận Ngữ, thiên Vi Chính, chương 14)

【Chú thích】

  • Chu (周), Tỉ (比): Hai chữ này đối lập nhau và có nhiều cách giải thích, chẳng hạn như: công là “chu”, tư là “tỉ”; nghĩa là “chu”, lợi là “tỉ”; trung tín là “chu”, a dua bè phái là “tỉ”; hòa hợp là “chu”, hùa theo là “tỉ”, v.v.
  • Tỉ (比): Âm cũ đọc là “bì”. Chữ này không nhất thiết chỉ mang nghĩa xấu. Ví dụ, Khổng Tử từng nói “nghĩa chi dữ tỉ” (lấy nghĩa làm chuẩn) (thiên Lý Nhân), và trong sách Quốc Ngữ – Tấn Ngữ, Thúc Hướng cũng có câu “quân tử tỉ nhi bất biệt” (người quân tử thân cận nhưng không phân biệt đối xử).

【Thảo luận】

Trong Luận Ngữ, “quân tử” (君子) xuất hiện 107 lần, “tiểu nhân” (小人) xuất hiện 25 lần, và có 18 chương đặt quân tử và tiểu nhân trong thế đối sánh. Chương này là lần đầu tiên trong Luận Ngữ nói về sự đối lập giữa quân tử và tiểu nhân.

Do cách hiểu về “chu” và “tỉ” khác nhau, câu “Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu” có nhiều cách dịch sang văn nói khác nhau, ví dụ:

  1. “Người quân tử đối đãi với người bằng lòng trung tín, nhưng không thiên vị vì lợi ích riêng. Kẻ tiểu nhân kết giao vì lợi ích riêng, nhưng không có lòng trung tín.” (Tiền Mục)
  2. “Người quân tử đoàn kết chứ không câu kết; kẻ tiểu nhân câu kết chứ không đoàn kết.” (Dương Bá Tuấn)
  3. “Người quân tử hòa hợp nhưng không a dua theo đám đông; kẻ tiểu nhân a dua theo đám đông nhưng không hòa hợp.” (Tôn Khâm Thiện)
  4. “Một người quân tử đối với người thì trung tín mà không lập bè phái; kẻ tiểu nhân chỉ biết lập bè phái mà không thể trung tín.” (Mao Tử Thủy)

Cổ văn cô đọng, một chữ có nhiều nghĩa, văn nói hiện đại khó có thể diễn đạt tương ứng từng chữ một, nên các bản dịch cũng chỉ có thể truyền đạt đại ý. Các bản dịch trên đều có thể chấp nhận được, “tuy không trúng hẳn nhưng cũng không sai lệch nhiều”.

Trong thiên Vệ Linh Công của Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng” (Người quân tử trang nghiêm mà không tranh giành, hòa đồng mà không kéo bè kết phái). Trong thiên Tử Lộ, ông nói: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” (Người quân tử hòa hợp nhưng không a dua, kẻ tiểu nhân a dua nhưng không hòa hợp). Những câu này có thể dùng để tham khảo chéo cho nhau.

Tuy nhiên, người viết cho rằng, nội hàm của “Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu” có lẽ gần gũi hơn với câu “Quân tử chi giao đạm như thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ” (Tình giao của người quân tử nhạt như nước, tình giao của kẻ tiểu nhân ngọt như rượu ngọt) trong sách Trang Tử – Sơn Mộc.

Nếu không phải là “tình giao của người quân tử nhạt như nước”, thì trong xã hội thực tế sẽ nảy sinh một vấn đề: Kẻ tiểu nhân thường kéo bè kết phái để mưu lợi riêng, vậy người quân tử có nên kết bè phái hay không?

Ở đây xin kể một “công án”. Năm 1044, Phạm Trọng Yêm chủ trì cuộc “Khánh Lịch tân chính”, tranh chấp trong triều đình vô cùng gay gắt. Một lần, Tống Nhân Tông hỏi: “Từ xưa đến nay, kẻ tiểu nhân thường lập bè đảng, vậy có bè đảng của người quân tử không?” Sau đó, Âu Dương Tu đã dâng lên một bài luận có tên là “Bằng Đảng Luận”, trong đó ông cho rằng “kẻ tiểu nhân không có bè đảng, chỉ người quân tử mới có”. Lý do là vì kẻ tiểu nhân kết bè với nhau vì cùng lợi lộc, đó là bè đảng giả tạo. Chỉ người quân tử mới có bè đảng thật sự, vì họ cùng giữ đạo nghĩa, cùng thực hành lòng trung tín, cùng trân trọng danh tiết, đồng lòng giúp đỡ lẫn nhau, trước sau như một. Ông kết luận: “Chỉ mong nhà vua phân biệt được đâu là quân tử, đâu là tiểu nhân mà thôi.”

Bài văn này vừa ra đời đã lưu danh ngàn năm, nhưng cũng gây ra rất nhiều tranh cãi. Ví dụ, cái gì là nghĩa, cái gì là lợi, chẳng lẽ do một mình ông Âu Dương Tu quyết định sao? Người quân tử vì nghĩa mà kết bè, vậy nếu giữa những người quân tử có bất đồng về cách hành nghĩa thì phải làm sao? Cùng là kết bè, kẻ tiểu nhân kết bè thì sai, còn người quân tử kết bè thì đúng, đây có phải là tiêu chuẩn kép không? Trên thực tế, cuộc tranh giành bè phái ở Bắc Tống vô cùng khốc liệt, là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến sự diệt vong của triều đại này. Khoảng 700 năm sau, khi hoàng đế Ung Chính của nhà Thanh đọc “Bằng Đảng Luận” của Âu Dương Tu, ông đã nổi trận lôi đình và đích thân viết một bài “Ngự Chế Bằng Đảng Luận”, gọi bài luận của Âu Dương Tu là “tà thuyết”.

Dù cho lập luận trong “Bằng Đảng Luận” của Âu Dương Tu có chỗ chưa chu toàn, thì hoàng đế Ung Chính cũng không cần phải tức giận đến vậy. Qua “công án” lịch sử này, khi nhìn lại câu “Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu”, chúng ta mới thấy lời của thánh nhân thật vô cùng sâu sắc!

Sự khác biệt giữa quân tử và tiểu nhân không phải là tuyệt đối. Người quân tử đối xử tốt với mọi người, kể cả với kẻ tiểu nhân, không nên ghét cái ác như kẻ thù. Trong diễn văn nhậm chức lần thứ hai, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln vào thế kỷ 19 đã nói: “Đối với bất kỳ ai cũng không mang lòng ác ý, đối với tất cả mọi người đều có lòng từ bi” (With malice toward none, with charity for all). Đây có lẽ cũng chính là ý nghĩa mà chúng ta nên lĩnh hội từ chương này.


Tài liệu tham khảo chính

  • Luận Ngữ Chú Sớ (bản có dấu câu trong bộ Thập Tam Kinh Chú Sớ, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
  • Luận Ngữ Tập Chú (Chu Hy, trong bộ Tứ Thư Chương Cú Tập Chú)
  • Tứ Thư Trực Giải (Trương Cư Chính, Nhà xuất bản Cửu Châu)
  • Luận Ngữ Tân Giải (Tiền Mục, Nhà xuất bản Tam Liên)
  • Luận Ngữ Dịch Chú (Dương Bá Tuấn, Trung Hoa Thư Cục)
  • Luận Ngữ Kim Chú Kim Dịch (Mao Tử Thủy chú dịch, Nhà xuất bản Hữu nghị Trung Quốc)
  • Luận Ngữ Tam Bách Giảng (Phó Bội Vinh, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
  • Luận Ngữ Dịch Chú (Kim Lương Niên, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
  • Luận Ngữ Bản Giải (bản hiệu đính) (Tôn Khâm Thiện, Nhà xuất bản Tam Liên)

Theo Epoch Times