Thưa quý vị, có bao giờ quý vị tự hỏi, tại sao bóng ma của Liên bang Xô viết, một đế chế đã sụp đổ nhiều thập niên, vẫn không ngừng ám ảnh Trung Nam Hải? Tại sao một câu nói của ông Tập Cận Bình, rằng khi Liên Xô tan rã “không một ai là nam nhi”, lại hé lộ một nỗi sợ hãi tột cùng ẩn sâu trong tâm khảm của giới lãnh đạo chóp bu tại Bắc Kinh?
Phải chăng đó là lời tiên tri cho một định mệnh không thể tránh khỏi? Phải chăng guồng quay của lịch sử, vốn đã nghiền nát Đảng Cộng sản Liên Xô, giờ đây cũng đang từ từ siết chặt lấy Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)? Bảy mươi năm thảm hoạ dân tộc mà Liên Xô đã trải qua, liệu có phải là tấm gương tày liếp cho 70 năm cầm quyền của ĐCSTQ?
Trong chương trình Phân tích và Bình luận hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau quay ngược dòng thời gian, trở về những năm 90 của thế kỷ trước, một thập niên đầy biến động và hỗn loạn, để tìm hiểu xem ĐCSTQ đã làm thế nào để thoát khỏi “cơn hấp hối” sau sự sụp đổ của đàn anh Liên Xô, và những hạt mầm tai hoạ nào đã được gieo rắc trong chính giai đoạn đó, để rồi nảy mầm thành cuộc khủng hoảng toàn diện mà Trung Quốc đang phải đối mặt ngày hôm nay.
ĐÊM TRƯỚC CỦA SỰ SỤP ĐỔ – TRUNG NAM HẢI ĐÃ BIẾT TRƯỚC ĐIỀU GÌ ?
Đêm ngày 25 tháng 12 năm 1991, cả thế giới nín thở hướng về Mát-xcơ-va. Trên Quảng trường Đỏ, từ trên đỉnh Điện Kremlin, lá cờ búa liềm với ngôi sao năm cánh màu đỏ của Liên bang Xô viết đã từ từ được hạ xuống. Một đế chế cộng sản chuyên chế lớn nhất thế giới, một siêu cường từng làm rung chuyển địa cầu, đã chính thức biến mất khỏi bản đồ chính trị.
Cùng lúc đó, tại Bắc Kinh, bên trong toà nhà của Bộ Ngoại giao trên phố Triều Dương Môn Nội, không khí căng thẳng đến tột độ. Tại tầng bốn, trong văn phòng của Vụ Liên Xô và Đông Âu, chuông điện thoại reo vang không ngớt. Một bức điện khẩn được đánh đi: “Báo cáo gấp cho lãnh đạo trực ban Bộ Ngoại giao, chuyển thẳng tới Văn phòng Trung ương”. Nội dung tình báo được tóm gọn trong một câu duy nhất: “Đài truyền hình Liên Xô thông báo, tối nay bảy giờ sẽ có tin tức trực tiếp quan trọng”. Phần tổng hợp tình báo cũng chỉ có một câu: “Lão huynh sắp xong rồi”.
“Lão huynh” mà vị đại sứ nhắc tới, không ai khác chính là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ông Mikhail Gorbachev. Tin tức chính là ông ta sắp từ chức. Rạng sáng ngày 26 tháng 12 theo giờ Bắc Kinh, bảy, tám quan chức ngoại giao cấp cao của Trung Quốc tập trung trong một căn phòng, im lặng theo dõi bài phát biểu chia tay dài bảy phút nổi tiếng của ông Gorbachev. Mùa Đông năm ấy ở Bắc Kinh, hệ thống sưởi được cung cấp rất đầy đủ, nhưng trong phòng lại không ai cảm thấy ấm. Tất cả đều bất giác pha cho mình những tách trà hoa nhài nóng hổi, ôm chặt trong tay. Tại sao vậy? Bởi vì một luồng hơi lạnh đang bốc lên từ chính trong tâm can họ. Một cảm giác mông lung, hoang mang trước một cơn địa chấn chính trị kinh hoàng, một nỗi buồn thương khó tả cho một người đồng chí, một người đàn anh sắp gục ngã.
Họ bước vào văn phòng của Quốc vụ uỷ viên kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham và kinh ngạc phát hiện ra, vị bộ trưởng cũng đang cầm một tách trà nóng, gương mặt trầm ngâm. Có lẽ trong lòng ông cũng đang giá lạnh. Ông Tiền Kỳ Tham bình thản nói: “Tôi biết rồi, quả nhiên không ngoài dự liệu”. Khi đại biểu của các nước cộng hoà thuộc Liên Xô giơ tay biểu quyết, Liên bang Xô viết đã chính thức biến mất trên phương diện pháp lý, không một tiếng súng, không một giọt máu.
Ngày hôm sau, ông Tiền Kỳ Tham đến Trung Nam Hải họp. Một cuộc thảo luận của Trung ương về đối sách đối với sự sụp đổ của Liên Xô đã diễn ra. Quý vị có biết cuộc họp này kéo dài bao lâu không? Chỉ vỏn vẹn nửa tiếng đồng hồ, toàn bộ định hướng cơ bản đã được quyết định. Đàn anh Liên Xô đã sụp đổ, một sự kiện có thể làm thay đổi hoàn toàn tương lai của ĐCSTQ, vốn dĩ chỉ là một chi bộ ở Viễn Đông của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại sao lại có thể được quyết sách nhanh chóng đến như vậy?
Câu trả lời nằm ở hai chữ: Đặng Tiểu Bình. Bởi vì ông Đặng đã sớm vạch ra con đường, đã sớm định đoạt tất cả.
Năm 1989, ông Đặng Tiểu Bình hội kiến với ông Gorbachev. Khi đó, ông đã đặt ra một nguyên tắc cho cuộc gặp: “Chỉ bắt tay, không ôm”. Tại sao lại nói như vậy? Nhìn bề ngoài, hai đảng cộng sản có nguồn gốc sâu xa. Ngay từ khi ĐCSTQ kiến lập chính quyền, họ đã đi theo chính sách “nghiêng về một phía”, hoàn toàn ngả theo Liên Xô. Nhưng thực tế có thân thiết đến vậy không? Hai đảng đã nhiều năm không gặp mặt, liên tục chửi bới, thậm chí đánh nhau trên chiến trường. Mười năm trước đó, khi ông Đặng Tiểu Bình công du Hoa Kỳ, ông đã xác định rõ ràng rằng, để ĐCSTQ có thể bảo toàn an ninh cầm quyền của mình, họ phải thoát ly khỏi con đường xã hội chủ nghĩa truyền thống và “kết thân” với phương Tây.
Ông Đặng thời trẻ đã từng đến Liên Xô, ông hiểu rất rõ tính cách của người Nga. Các nhà lãnh đạo gặp nhau thường phải ôm hôn thắm thiết, kiểu “gấu Nga ôm”. Ông Đặng không muốn điều đó. Khi chờ đợi ông Gorbachev, ông đã tự nhủ: “Lần này gặp mặt, nên nói gì cho phải đây?”. Ông đã suy nghĩ về câu chuyện này suốt ba năm trời. Tại sao lại khó nói đến vậy? Bởi vì tình thế của ĐCSTQ lúc đó vô cùng trớ trêu. Trong xương tuỷ, họ vẫn là cộng sản chủ nghĩa, vẫn là con cháu của Marx và Lenin. Nhưng mặt khác, họ lại đang chuẩn bị phản bội chính con đường cách mạng “tiêu diệt chế độ công hữu” của mình để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Vậy thì, khi gặp nhà lãnh đạo Liên Xô, nên coi đối phương là người nhà, là kẻ thù, hay là kẻ thù trong nhà, hoặc là người nhà nhưng lại đối địch? Trong lòng ông Đặng không có câu trả lời chắc chắn. Vì vậy, ông nghĩ, tốt nhất là đừng quá thân mật, đừng ôm.
Kết quả, khi gặp mặt, ông Đặng Tiểu Bình đã nắm chặt tay ông Gorbachev, giữ suốt 35 giây không buông. Tại sao lại nắm lâu như vậy? Chính là vì sợ rằng hễ buông tay ra, đối phương sẽ dang tay ôm chầm lấy mình. Ông Đặng cứ nắm chặt tay, không buông.
BÓNG MA CỦA LENIN VÀ BẢN SAO “CẢI CÁCH MỞ CỬA”
Chuyến đi Liên Xô thời trẻ với tư cách là một lưu học sinh đã để lại cho Đặng Tiểu Bình một ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là khi ông được chứng kiến tận mắt Chính sách Kinh tế Mới (NEP) của Lenin. Chính sách này đã mang lại cho ông một nguồn cảm hứng to lớn. Điểm mấu chốt của nó là gì? Đó là cho phép một chính quyền xã hội chủ nghĩa được thành lập ở một quốc gia lạc hậu có thêm thời gian quá độ để phát triển kinh tế hàng hoá. Nó thậm chí còn cho phép nhiều thành phần sở hữu cùng tồn tại để thúc đẩy năng suất.
Ông Đặng cho rằng, Trung Quốc lúc bấy giờ cũng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa rất lạc hậu. Ông cũng tin rằng Liên Xô sau này đã đi theo chủ nghĩa Stalin, trở nên cứng nhắc và đi vào ngõ cụt, sự sụp đổ của nó là một điều tất yếu. Vì vậy, ĐCSTQ đã có sự chuẩn bị và dự liệu đầy đủ cho sự tan rã của Liên Xô, đó là lý do tại sao chỉ mất nửa tiếng để định ra đối sách.
Nhưng câu hỏi đặt ra là, liệu Chính sách Kinh tế Mới của Lenin có thực sự hiệu quả khi áp dụng vào Trung Quốc ngày nay không? Thực chất, đó chỉ là một chiêu bài lừa bịp mà Lenin dùng để đánh lừa người dân Liên Xô, nhằm củng cố chính quyền cộng sản còn non trẻ lúc bấy giờ. ĐCSTQ ngày nay mang nó ra dùng, thì sẽ dùng như thế nào?
Trên mặt trận tuyên truyền chính thức, họ gọi đó là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Bản thân cái tên này đã chứa đầy mâu thuẫn về bản chất. Làm thế nào mà những người cộng sản, với mục tiêu cuối cùng là xoá bỏ chế độ tư hữu, lại có thể đi xây dựng nền kinh tế tư nhân? Vậy thì, số tiền kiếm được đó, cuối cùng thuộc về ai?
Khoảng một tuần sau khi Liên Xô sụp đổ, Giang Trạch Dân đã triệu tập hơn ba mươi quan chức và học giả quan trọng có liên quan đến Liên Xô và Nga để tổ chức một cuộc hội thảo. Khi đó, có một luồng quan điểm cho rằng Gorbachev phải chịu trách nhiệm cho sự tan rã của Liên Xô. Quan điểm này cho đến tận ngày nay vẫn là dòng chủ lưu trong nội bộ ĐCSTQ. Nhà lãnh đạo hiện tại, ông Tập Cận Bình, cũng tin sâu sắc vào điều này. Ông ta cho rằng, yếu tố nội tại dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô chính là sự sa sút về niềm tin vào chủ nghĩa Marx-Lenin của những người cộng sản. Ông Tập đã chẳng từng nói đó sao, rằng khi Liên Xô sụp đổ, “không một ai là nam nhi”?
Vậy tại sao hàng triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô lại không đứng ra để cứu lấy đảng của mình? Thực ra, ngay trong cuộc hội thảo năm đó, đã có người đặt ra câu hỏi này. Họ nói, khi Liên Xô sụp đổ, công nhân vẫn đi làm như thường lệ, nông dân vẫn ra nông trường, mọi thứ diễn ra rất bình lặng. Nếu chế độ này thực sự bảo vệ lợi ích của công nông, tại sao họ lại không vùng lên để bảo vệ chính quyền đó?
Đối với ĐCSTQ, một chính đảng không muốn lựa chọn rút lui khỏi vũ đài lịch sử, họ chỉ có thể cầm lấy phiên bản mới của Chính sách Kinh tế Mới của Lenin, đổi tên thành “Cải cách Mở cửa”, rồi tiếp tục con đường của mình. Nhưng điều này lại làm khó một người, đó chính là Giang Trạch Dân. Ông Giang vừa mới lên nắm quyền sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Bản thân chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường vốn đã đối nghịch nhau, vậy rốt cuộc phải làm thế nào?
Sau khi lên nắm quyền, Giang Trạch Dân, một người giỏi suy tính và đầu cơ, đã nghĩ rằng: Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương làm việc quá thiên về cánh hữu nên mới bị hạ bệ. Bây giờ, một người không đủ tư cách như mình được đưa lên, trước hết phải rẽ sang trái mới đúng. Thế là, ông Giang bắt đầu tuyên bố rằng phải “làm cho bọn tư bản phá sản, thân bại danh liệt”. Những lời nói và hành động cực tả này của Giang Trạch Dân đã nhận được sự ủng hộ toàn diện từ Thủ tướng Lý Bằng và các lão thành cánh tả như Lý Tiên Niệm, Trần Vân.
CUỘC NAM TUẦN CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH – MỘT CUỘC “CHÍNH BIẾN” KHÔNG TIẾNG SÚNG
Đặng Tiểu Bình phản đối. Ông nói: “Các anh hoàn toàn không hiểu ý của tôi”. Tuy nhiên, những bài phát biểu của ông Đặng đã bị phong tỏa chặt chẽ ở Bắc Kinh, rất khó gây được tiếng vang trong xã hội. Ông Đặng thấy rằng không ai nghe theo mình, tất cả đều là phe cánh tả, chỉ còn lại mình ông muốn đi theo con đường cánh hữu. Ông cảm thấy cô độc về mặt chính trị.
Điều này làm ông nhớ lại, năm xưa, chẳng phải Bành Chân và các tập đoàn lợi ích quan liêu khác ở trung ương cũng đã phong tỏa lời nói của Mao Trạch Đông đó sao? Chẳng phải lời nói của Mao cũng không được truyền đạt ở Bắc Kinh đó sao? Mao đã làm gì? Ông đã thực hiện một chuyến “Nam tuần”, thông qua chuyến đi này để tung tin, đánh đổ phe cánh ở Bắc Kinh. Việc đánh đổ Lâm Bưu cũng là nhờ một chuyến Nam tuần để tung tin.
Thế là, Đặng Tiểu Bình quyết định bắt đầu chuyến Nam tuần của riêng mình. Tại thành phố Thâm Quyến, ở ngã tư đường Thâm Nam và đường Hồng Lĩnh, trong suốt nhiều thập niên, người ta vẫn đặt một bức tranh khổng lồ về chuyến Nam tuần của Đặng Tiểu Bình. Tại sao bức tranh đó lại được đặt ở đó lâu như vậy? Bởi vì nó mang một hàm ý sâu sắc: Bất kể Thâm Quyến phát triển nhanh đến đâu, bất kể có bao nhiêu tranh cãi về chính sách, Thâm Quyến có một tính chính danh, một sự hợp pháp được xác nhận bởi chính câu nói của Đặng Tiểu Bình. “Các anh đừng ai ghen tị. Chúng tôi kiếm được tiền, phát triển nhanh, không ai được ghen tị.” Câu nói đó của Đặng Tiểu Bình là gì? “Ai không ủng hộ cải cách, người đó phải xuống đài.” Trong bức tranh ban đầu, ông Đặng còn giơ một tay. Sau này khi ông qua đời, bàn tay đó không thể giơ lên nữa, nên người ta đã vẽ lại cho nó hạ xuống.
Sau chuyến Nam tuần của ông Đặng, tờ Giải phóng Nhật báo ở Thượng Hải đã dùng một cách diễn đạt rất Thượng Hải để truyền tải thông điệp “ai không cải cách thì xuống đài”. Họ đặt tiêu đề bằng tiếng địa phương: “Không đổi não thì đổi người”. Đây chẳng phải là nói thẳng vào mặt Giang Trạch Dân, người xuất thân từ Bí thư Thành ủy Thượng Hải đó sao?
Còn có một hành động mạnh mẽ hơn. Dương Thượng Côn, với tư cách là Phó Chủ tịch Quân ủy, đã chỉ thị cho tờ Giải phóng quân Báo đăng một bài báo ủng hộ Đặng Tiểu Bình với tiêu đề: “Giải phóng quân phải hộ tống cho Cải cách Mở cửa”. Trong đấu tranh chính trị, điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là: “Tôi đã chĩa súng vào hông anh rồi đấy, Giang Trạch Dân ạ. Anh có nghe lời không?”
VÁN CỜ LẬT NGƯỢC CỦA GIANG TRẠCH DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA TĂNG KHÁNH HỒNG
Trong một cuộc họp mặt của các lãnh đạo cấp cao, Dương Thượng Côn đã chỉ thẳng vào mặt Giang Trạch Dân và nói: “Thay anh rất dễ dàng, chỉ là hiện tại chưa tìm được người thích hợp”. Dương Thượng Côn là một nguyên lão khai quốc, ảnh hưởng của ông trong đảng, chính quyền và quân đội chỉ đứng sau Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân vừa mới đến Bắc Kinh, không thể không cúi đầu.
Tuy nhiên, sau khi nghe lời của Dương Thượng Côn và Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân cũng đồng thời ghi lòng tạc dạ mối thù, ghi nhớ sự sỉ nhục lần này. Ông ta bắt đầu tổ chức các cuộc điều tra bí mật. Ở một Bắc Kinh xa lạ, việc này vô cùng khó khăn, không ai chịu làm cho ông ta. Đúng lúc này, một nhân vật từng theo Giang Trạch Dân ở Thượng Hải, lại có mối quan hệ với các gia tộc nguyên lão ở Bắc Kinh đã xuất hiện. Người đó là Tăng Khánh Hồng.
Tăng Khánh Hồng được điều đến Bắc Kinh, bắt đầu xây dựng một mạng lưới tình báo, bí mật điều tra Dương Thượng Côn. Cuối cùng, họ đã có được một thông tin tình báo quan trọng: Dương Thượng Côn đã công khai và bí mật nói rằng, một ngày nào đó sự kiện Thiên An Môn sẽ được minh oan. Trước sự kiện này, Dương Thượng Côn từng tỏ thái độ phản đối đàn áp, lập trường chính trị rất đáng nghi ngờ. Thêm vào đó, em trai của ông là Dương Bạch Băng đang là Tổng thư ký Quân ủy, một nhân vật có thực quyền, phụ trách công tác cán bộ cấp cao trong quân đội. Đối với Đặng Tiểu Bình, đây chính là một mối đe dọa.
Giang Trạch Dân đã đệ trình một bản báo cáo “thêm dầu thêm mắm”, đóng một vai trò quyết định trong việc hạ bệ Dương Thượng Côn. Dương Thượng Côn cũng là một nhân vật tầm cỡ, nói hạ là hạ được sao? Phải làm thế nào? Đặng Tiểu Bình quyết định tự mình từ chức Chủ tịch Quân ủy, giao lại cho Giang Trạch Dân, để ép Dương Thượng Côn nghỉ hưu. Dương Thượng Côn không còn cách nào khác, đành phải từ chức Chủ tịch nước, giao lại cho Giang Trạch Dân.
Năm 1992, tại Đại hội 14 của ĐCSTQ, Giang Trạch Dân được bầu làm Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Đồng thời, một quyết định được đưa ra: Quân ủy Trung ương sẽ không còn đặt chức vụ Tổng thư ký nữa. Điều này đã tước đi thực quyền của Tổng thư ký Quân ủy Dương Bạch Băng. Chúng ta biết rằng Dương Bạch Băng đã ký vào lệnh đàn áp Thiên An Môn, vì vậy, ông ta vẫn được giữ lại một vị trí trong Bộ Chính trị. Ở trong Bộ Chính trị, ông ta chỉ có thể bỏ phiếu, chỉ có thể ủng hộ hành động đàn áp, sẽ không thể lật lại vụ án Thiên An Môn. Dương Thượng Côn, người từng yêu cầu minh oan cho sự kiện này, đã từ chức Chủ tịch nước và về nhà dưỡng lão.
Sau khi nắm toàn bộ quyền lực, để có được sự tin tưởng hoàn toàn của Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân đã từ bỏ lối làm việc cứng nhắc với các buổi học tập chính trị liên miên, bầu không khí chính trị vô cùng ngột ngạt của những năm đầu thập niên 90. Sự tàn khốc của năm 1989, sau vài năm, dường như cũng bị người dân Trung Quốc lãng quên, như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Họ bắt đầu tìm kiếm những niềm vui và lối thoát mới.
MỘT THẬP NIÊN HỖN LOẠN VÀ “LÀM GIÀU TRONG IM LẶNG”
Giai đoạn này, hàng loạt tác phẩm văn nghệ bắt đầu xuất hiện, để lại ấn tượng sâu sắc cho thế hệ người dân lúc bấy giờ. Những bộ phim truyền hình như “Khát vọng” (Kewang), “Vây thành” (Weicheng), “Chuyện ở phòng biên tập” (Bianjibu de Gushi) đã trở thành những tác phẩm kinh điển mà nhà nhà đều biết.
Đầu những năm 90, người Trung Quốc vẫn chưa đi du lịch khắp thế giới như bây giờ. Đa số vẫn còn khá lạ lẫm với nước ngoài. Năm 1994, một bộ phim truyền hình dài tập phản ánh cuộc sống của người di dân Trung Quốc tại Hoa Kỳ, “Người Bắc Kinh ở New York” (Beijing Ren Zai Niuyue), đã gây sốt trên toàn quốc. Trong phim, người ta nhớ đến nhân vật Vương Khởi Minh do Khương Văn thủ vai, nhớ đến A Xuân, và cả nhân vật người Hoa Kỳ nói giọng Bắc Kinh đặc sệt tên là David.
Thực tế, David không phải là một diễn viên chuyên nghiệp. Ông là một chuyên gia nghiên cứu quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ, tên tiếng Anh là Robert Daly, tên tiếng Trung là Đới Bác. Diễn xuất chỉ là nghề tay trái của ông, một cuộc dạo chơi. Nghề chính của ông là nghiên cứu quan hệ song phương. Sau này, ông Đới Bác trở thành giám đốc của Trung tâm Hopkins-Nam Kinh, một dự án hợp tác giữa Đại học Nam Kinh và Đại học Johns Hopkins, và được xem là một chuyên gia về Trung Quốc có quan hệ mật thiết với chính quyền Bắc Kinh.
Vậy ông Đới Bác sau này đã có những thay đổi gì? Chúng ta biết rằng, chiến lược “thao quang dưỡng hối, quyết không đi đầu” của Đặng Tiểu Bình đã giúp ĐCSTQ, dưới sự phán đoán sai lầm và thiện chí của Hoa Kỳ, có được một sự phát triển đáng kinh ngạc. “Làm giàu trong im lặng” là nguyên tắc tối cao của Giang Trạch Dân. Từ ông ta, đến Hồ Cẩm Đào, rồi Tập Cận Bình, chính sách ăn cắp ý tưởng từ Lenin của Đặng Tiểu Bình, cái gọi là “Cải cách Mở cửa”, một lần nữa đã đẩy đất nước đến bờ vực của thể chế chính trị và bong bóng kinh tế. Con đường này đã không thể đi tiếp được nữa.
Sự thâm nhập của ĐCSTQ, sự phá hoại của họ đối với trật tự thế giới, đã khiến phương Tây, vốn từng dành cho ĐCSTQ sự kiên nhẫn và thiện chí, phải bừng tỉnh. Thời gian trôi đến tháng 11 năm 2018, Viện Hoover của Đại học Stanford, một viện nghiên cứu chính sách nổi tiếng của Hoa Kỳ, đã công bố một bản báo cáo với tiêu đề: “Ảnh hưởng của Trung Quốc và Lợi ích của Hoa Kỳ: Nâng cao cảnh giác mang tính xây dựng”. Bản báo cáo cảnh báo này cho biết, ĐCSTQ đã thâm nhập và thao túng toàn diện chính phủ, các trường đại học, truyền thông, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng người Hoa tại Hoa Kỳ. Báo cáo này là công trình của 32 chuyên gia về vấn đề Trung Quốc, được thực hiện trong một năm rưỡi. Báo cáo đã dành 22 trang để mô tả sự kiểm soát của ĐCSTQ đối với các phương tiện truyền thông tiếng Trung tại Hoa Kỳ.
Điều thú vị là gì? Trong danh sách 32 chuyên gia đó, được xếp theo thứ tự bảng chữ cái, cái tên Robert Daly đã đứng ở vị trí đầu tiên. Nhân vật David trong “Người Bắc Kinh ở New York” năm xưa, ngày nay một lần nữa trở thành một đối thủ tiềm tàng của ĐCSTQ.
Đầu những năm 90, khi người dân mất niềm tin vào cải cách chính trị và đổ xô đi kinh doanh, đó thực sự là một thời đại anh hùng xuất hiện lớp lớp. Nhiều ông trùm kinh doanh sau này khi đó mới chỉ bắt đầu khởi nghiệp. Hơn hai mươi năm đã trôi qua, một số nhân vật lừng lẫy một thời giờ đây ít được ai nhắc đến.
Mâu Kỳ Trung của Tứ Xuyên khi đó đã cùng với Phan Thạch Vỹ, người vừa mới nhảy việc, đến Hải Nam để đầu tư. Sau này, Mâu Kỳ Trung biết được Hãng hàng không Tứ Xuyên cần mua phi cơ. Phi cơ ở đâu rẻ? Của Liên Xô cũ. Thế là ông ta nghĩ ra một cách. Tứ Xuyên có rất nhiều đồ hộp, quần áo tồn kho, ông đã dùng phương thức hàng đổi hàng, dùng năm trăm toa xe hàng công nghiệp nhẹ để đổi lấy bốn chiếc phi cơ Tu-154, viết nên một huyền thoại về “đảo gia” (kẻ buôn lậu) quốc tế. Mười năm sau, Mâu Kỳ Trung, với tư cách là Chủ tịch Tập đoàn Nam Đức, đã bị bắt vì tranh chấp kinh tế, sau đó bị kết án 18 năm tù. Cậu “em út” của ông ta năm xưa, Phan Thạch Vỹ, đã chuyển sang thị trường bất động sản và trở thành thế hệ phú hào thứ hai của Trung Quốc.
Nhưng từ thế hệ phú hào đầu tiên, ĐCSTQ chưa bao giờ buông tha cho họ. Giống như những con vịt quay Bắc Kinh được nuôi cho béo, hễ béo là có thể cho vào lò quay. Quân đội lúc đó cũng không hề nhàn rỗi, họ bắt đầu kinh doanh, và việc kinh doanh ngày càng lớn mạnh. Quân khu Tế Nam buôn lậu xe hơi Hàn Quốc, dùng chiến hạm hộ tống để đưa xe về. Tàu tuần tra chống buôn lậu của hải quan nhìn thấy phía trước là chiến hạm, liệu có dám đuổi theo không? Có nơi còn lợi dụng các cuộc diễu hành, xem khách mua xe ở đâu gần, ví dụ ở Hà Nam, liền dùng trực thăng để vận chuyển xe từ ven biển Sơn Đông qua.
Năm 1994, công ty Viễn Hoa ở Hạ Môn được thành lập, chủ tịch là Lại Xương Tinh. Người này tuy chỉ học hết lớp ba, nhưng từ nhỏ đã biết cách kiếm tiền. Sau nhiều năm lăn lộn, ông ta đã tổng kết ra rằng, muốn làm ăn ở Trung Quốc, trước hết phải “lo lót” cho các cấp lãnh đạo. Ông ta đã đúc kết ra một “bảy chữ quyết” để thu phục quan chức Trung Quốc. Bảy chữ gì? Vé, nhà, con, gái, xe, ghế, và vở.
Vé, nhà, và xe thì không cần giải thích. “Con” tức là giúp các quan chức chăm sóc con cái, gửi chúng ra nước ngoài du học, di dân, để họ không còn phải lo lắng về hậu phương. “Gái” chính là các cô gái xinh đẹp. Lại Xương Tinh thậm chí còn xây cả một toà “Hồng Lâu” để chuyên tiếp đãi các vị khách quan trọng. “Vở” chính là hộ chiếu, là một con đường để trốn ra nước ngoài. Còn “ghế” chính là Lại Xương Tinh lợi dụng các quan chức cấp cao hơn để đề bạt các quan chức cấp dưới. Lại Xương Tinh đã dùng “bảy chữ quyết” này và trăm trận trăm thắng. Công ty Viễn Hoa đã buôn lậu dầu thành phẩm và các loại hàng hoá khác ở Hạ Môn. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, số tiền buôn lậu theo con số chính thức đã vượt quá 50 tỷ nhân dân tệ, nhưng con số thực tế còn lớn hơn rất nhiều. Đây là vào những năm 90.
HỒI KẾT CỦA MỘT THẾ KỶ
Những năm 90, thu nhập của người dân dần tăng lên. Người ta ra đường không chỉ đi xe buýt nữa, mà những ai có chút tiền có thể chọn đi taxi. Ở Bắc Kinh lúc đó, loại xe phổ biến được gọi là “diện đích” (xe bánh mì). Đó là những chiếc xe van nhỏ màu vàng, tính cả tài xế có thể chở được sáu người. Xe chở được nhiều người, giá khởi điểm lại chỉ có 10 tệ cho 10 cây số, vô cùng rẻ. Chỉ có điều là không có điều hoà, trong xe chỉ lắp một cái quạt điện nhỏ, hành khách phải cố gắng nhoài người về phía trước để hứng gió cho mát. Và rồi, họ lắng nghe người tài xế phía trước bàn chuyện thiên hạ đại sự. Nào là ai đó lại đi viếng đền Yasukuni, nào là Đài Loan bắn hoả tiễn. Tất nhiên, chủ đề được bàn tán nhiều nhất vẫn là việc Hồng Kông trở về. “Anh biết không, nhà tôi có một người họ hàng đã sang Hồng Kông rồi đấy”. Tại sao Hồng Kông lại “thơm” đến thế? Và người ta cũng không hiểu nổi, tại sao tài xế taxi ở Bắc Kinh ngày đó dường như ai cũng có họ hàng ở Hồng Kông.
Ngày 1 tháng 7 năm 1997, Hồng Kông trở về với Trung Quốc. Đêm 30 tháng 6, một trận mưa lớn đã trút xuống. Cơn mưa dường như mang theo một điềm báo nào đó về tương lai của Hồng Kông. Tối hôm đó, vào lúc 12 giờ, lễ bàn giao đã được tổ chức tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Hồng Kông. Tổng Bí thư ĐCSTQ Giang Trạch Dân, với tư thế của một người chiến thắng, đã bắt tay với Thái tử Charles của Anh. Ông ta hoàn toàn không để ý đến Thống đốc Hồng Kông Chris Patten, người trước đó đã có mâu thuẫn với Bắc Kinh, như thể ông Patten không hề tồn tại. Giang Trạch Dân đã thể hiện như thể là một nhà lãnh đạo đại quốc.
Năm 1998, một trận lũ lụt đặc biệt lớn đã xảy ra trên toàn Trung Quốc. Giang Trạch Dân đã ra lệnh phải “phòng thủ nghiêm ngặt, giữ vững trận địa”. Trên các kênh truyền hình, người ta thường xuyên thấy cảnh các quân nhân nhảy xuống dòng nước lũ cuồn cuộn, dũng cảm chống chọi với thiên tai. Người Trung Quốc đã quen với những lời nói dối hoang đường kiểu này. Họ xem những màn trình diễn lố bịch đó trên TV mà cũng quen dần. Giữa những lời nói dối hoang đường đó, họ cũng hoang đường rơi nước mắt.