Piano Sonata No. 29 cung Si giáng trưởng, Op. 106 của Beethoven là bản sonata cho piano được viết trong thời kỳ thứ ba của nhà soạn nhạc. Đây là bản sonata quan trọng nhất của Beethoven và cũng là một trong những bản sonata vĩ đại nhất mọi thời đại.

Tác phẩm còn được biết đến với cái tên “Große Sonate für das Hammerklavier”, hay đơn giản hơn là “Hammerklavier” . Hammerklavier có nghĩa đen là “Tiếng búa trên phím đàn”, và ngày nay vẫn là tên tiếng Đức của fortepiano, tiền thân của cây đàn piano hiện đại.

Hammerklavier có nghĩa đen là “Tiếng búa trên phím đàn” (Ảnh: hbcjw.com)

Piano Sonata No. 29 hoàn thành vào năm 1818, nó thường được coi là tác phẩm piano thách thức nhất về mặt kỹ thuật của Beethoven và là một trong những tác phẩm độc tấu đòi hỏi khắt khe nhất trong các tiết mục piano cổ điển. Buổi trình diễn công khai đầu tiên được ghi nhận là vào năm 1836 bởi Franz Liszt trong Salle Erard ở Paris.

Dành riêng cho người bảo trợ của mình, Archduke Rudolf, bản sonata được viết chủ yếu từ mùa hè năm 1817 đến cuối mùa thu năm 1818, là thời kỳ cuối trong sự nghiệp sáng tác của Beethoven.

Tác phẩm gồm 4 chương, một cấu trúc thường được Beethoven sử dụng và được mô phỏng bởi những người đương thời như Schubert, khác với ba hoặc hai chương thông thường như sonatas của Mozart và Haydn.

Bốn chương là:

Chương 1: Allegro
Chương 2: Scherzo: Assai vivace
Chương 3: Adagio sostenuto
Chương 4: Introduzione: Largo… Allegro – Fuga: Allegro risoluto

Clip là trọn vẹn tác phẩm được biểu diễn bởi nghệ sỹ Uriel Tsachor:

videoinfo__video3.dkn.tv||ddffcf1ed__

Chương 1 mang âm hưởng trầm hùng, tương phản tinh tế, nhưng điềm tĩnh và hoa mỹ, trong đó rất nhiều chủ đề tác giả sử dụng gợi nhắc đến thời kỳ tiền cổ điển, cổ điển mẫu mực, và chất lãng mạn không còn bộc lộ nhiều, thay vào đó là nét lý trí trở nên mạnh mẽ và gân guốc.

Chương 2 được viết theo hình thức Scherzo, hình thức mà rất dễ bộc lộ cá tính hài hước lạc quan. Và thính giả có thể nhận thấy cả chương 1 và 2 đều sử dụng những trạng thái nhấn rất mạnh, nhịp nhanh, đặc biệt chương 2 rất nhanh. Đó cũng chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả để viết một chương nhạc chậm sâu lắng phía sau.

Ảnh minh họa: deskgram.net

Chương 3 là một nỗi buồn sâu tha thiết và là một chương nhạc lãng mạn. Chương nhạc chậm ở dạng ternary, nó đã được gọi là “lăng mộ của nỗi buồn”, và đáng chú ý vì tính thanh tao và độ dài tuyệt vời của nó là một chương chậm (ví dụ: Wilhelm Kempff đã chơi trong khoảng 16 phút và Christoph Eschenbach 25 phút). Paul Bekker gọi chương nhạc này là “Sự thờ ơ của nỗi đau, nỗi buồn sâu thẳm mà không có phương thuốc, và nó tìm thấy biểu hiện không phải là sự tuôn ra đam mê, mà là sự tĩnh lặng vô tận của sự khốn khổ vô cùng”. Wilhelm Kempff mô tả nó là “đoạn độc thoại tuyệt vời nhất mà Beethoven từng viết”.

Về mặt cấu trúc, nó tuân theo hình thức sonata thời cổ điển truyền thống, nhưng sự tóm tắt của chủ đề chính rất đa dạng để bao gồm các hình tượng rộng lớn ở bàn tay phải dự đoán một số kỹ thuật của nhạc piano lãng mạn. Ted Libbey của NPR viết: “Toàn bộ dòng phát triển trong âm nhạc lãng mạn, đi qua Schubert, Chopin, Schumann, Brahms, và thậm chí cả Liszt hồi phát ra từ âm nhạc này.”

Ảnh minh họa: wallpaperbetter.com

Chương 4 mở đầu bằng nhịp chậm nhằm chuyển đổi hợp lý từ sự lãng mạn của chương 3 sang một chương có tính chất tương phản và giá trị nhân văn cao cả. Hoàn toàn khác với 3 chương nhạc trước, chương 4 bùng lên một niềm lạc quan cuồn cuộn đầy trí tuệ, vô tư và mạnh mẽ. Trong đó kỹ thuật strill láy xuất hiện rất nhiều, duyên dáng mà sinh động, lôi cuốn lãng mạn mà mỹ lệ.

Đôi nét về tác giả

Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Viên, Áo.

Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn.

Beethoven được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, và khán giả về sau.

Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ (Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê (Appasionata)… các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer… các Piano Concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major… các khúc mở màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont… và vở Opera duy nhất Fidelio, v.v.

Kim Cương