Thưa quý vị, từ một CEO khoác áo cà sa, người biến Thiếu Lâm Tự thành một đế chế kinh doanh với 700 thương hiệu khác nhau, đến một tội đồ bị chính giới Phật giáo khai trừ, tại sao Thích Vĩnh Tín, một nhân vật được ĐCSTQ nâng đỡ suốt cả một thập niên, lại đột ngột trở thành tù nhân chỉ sau một đêm? Phải chăng những câu chuyện về nhân tình và con riêng chỉ là một tấm bình phong mỏng manh, che đậy cho một sự thật kinh hoàng hơn nhiều: hệ thống mặt trận thống nhất của Trung Cộng đang sụp đổ toàn diện, và cuộc thanh trừng vốn liếng của giới Phật giáo chỉ mới bắt đầu?

Trong chương trình hôm nay của ‘Phân tích và Bình luận’, chúng ta sẽ cùng tác giả Giang Phong tìm hiểu tấm màn bí mật đằng sau sự sụp đổ của Thích Vĩnh Tín, một vụ án không chỉ đơn thuần là sự sa ngã của một nhà sư, mà là dấu hiệu cho thấy một cơn địa chấn chính trị và một cuộc tái cấu trúc tài sản khổng lồ đang âm thầm diễn ra bên trong các bức tường đỏ của Trung Nam Hải.

CEO KHOÁC ÁO CÀ SA: ĐẾ CHẾ KINH DOANH CỦA THÍCH VĨNH TÍN

Trước hết, chúng ta cần phải thay đổi hoàn toàn ấn tượng của mình về giới Phật môn tại Trung Quốc hiện nay. Trên người Thích Vĩnh Tín không hề có một chút hình ảnh nào của một nhà sư truyền thống ngày ngày ngồi thiền niệm kinh, tay cầm bát đi khất thực. Ông ta xuống tóc năm 16 tuổi, đến năm 22 tuổi đã nắm quyền quản lý ngôi chùa, và ở tuổi 34, ông ta không chỉ là “Phương trượng Thiếu Lâm Tự” mà đã trở thành “Tổng giám đốc Tập đoàn Văn hóa Thiếu Lâm”, đồng thời còn là một “Đại biểu Nhân đại Toàn quốc” của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều ông ta đại diện không phải là thanh quy giới luật của nhà Phật, mà là một tay đăng ký thương hiệu, một tay khuấy động các tập đoàn tài chính, một “ông trùm vận hành IP tôn giáo tổng hợp”.

Trong suốt 26 năm tại vị, Thích Vĩnh Tín đã biến Thiếu Lâm Tự từ một ngôi cổ tự trở thành một “biểu tượng thương hiệu” lưu thông trên toàn cầu. Ngôi chùa có đoàn võ tăng của riêng mình, có công ty điện ảnh riêng, có Hội chữ thập đỏ Thiếu Lâm, có Dược cục Thiếu Lâm, có công ty công nghệ Thiếu Lâm, và còn có cả một mô hình kinh doanh “trại trải nghiệm thiền tu” hoàn chỉnh. Từ tiền công đức, tiền vé vào cửa, cho đến phí biểu diễn và quyền nhượng quyền thương mại, tất cả đều có chỉ số KPI, tất cả đều phải quyết toán. Chỉ riêng về thương hiệu, Thiếu Lâm Tự đã đăng ký hơn 700 cái, từ “Công phu Thiếu Lâm”, “Bánh chay Thiếu Lâm”, “Gối thiền Thiếu Lâm”, cho đến “Trang phục thiền Thiếu Lâm”. Bất cứ thứ gì có thể sử dụng được, họ đều đã sử dụng. Thậm chí có người còn nói đùa rằng: “Bạn ở Nghĩa Ô cầm một cái bật lửa, trên đó in một chữ Phật, cũng có thể phải nộp tiền bản quyền cho Thiếu Lâm”.

Chuyện chưa dừng lại ở đó. Nghe nói, mỗi năm Thiếu Lâm Tự chỉ dựa vào việc cấp phép thương hiệu đã có thu nhập lên tới hàng trăm triệu nhân dân tệ. Tại châu Âu, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, khắp nơi đều mở các chi nhánh Thiếu Lâm Tự, võ đường, trung tâm văn hóa. Một số nơi còn tổ chức cả “trại đông công phu”, bao ăn, bao ở, bao thiền tu, thậm chí cả dịch vụ làm visa cũng có đại lý lo liệu. Đó không phải là tu hành, đó là phiên bản Phật môn của lớp đào tạo du học New Oriental. Và tổng kiến trúc sư của tất cả những điều này chính là Thích Vĩnh Tín.

Có người nói ông ta “truyền bá Phật pháp có phương pháp”, cũng có người gọi ông ta là “gian hùng cửa Phật”. Bản thân ông ta thì lại rất hùng hồn: “Thương mại hóa là để quảng bá văn hóa Thiếu Lâm tốt hơn”. Thoạt nghe, có vẻ cũng có chút lý. Rốt cuộc, việc trùng tu di tích cần tiền, tiếp đãi khách hành hương cần tiền, tăng nhân ăn chay cũng không thể hít gió mà sống. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ – khi bạn treo bảng giá lên cổng chùa, một nén hương giá sáu nghìn tệ; khi bạn biến thiền đường thành phòng họp, đưa ra một “kế hoạch tu hành do hội đồng quản trị soạn thảo”; khi bạn nói là hoằng pháp, nhưng lại chi 4.5 tỷ nhân dân tệ để mua đất ở Trịnh Châu xây dựng một khu phức hợp thương mại, thì xin lỗi, tín chúng tin không phải là Phật, mà là bảng báo cáo lợi ích cổ đông mang ba chữ Thích Vĩnh Tín của ông.

Đây mới chỉ là những hoạt động của ông ta ở trong nước, thực ra ở hải ngoại còn mạnh mẽ hơn. Dưới sự chủ trì của ông, Thiếu Lâm Tự đã thực sự “bước ra ngoài”, vượt khỏi châu Á và tiến vào toàn cầu. Luân Đôn, Berlin, Los Angeles, Toronto, khắp nơi đều có các phân viện, phân xã, quán trải nghiệm công phu. Danh nghĩa là “giao lưu văn hóa”, nhưng thực chất nhiều nơi đã trở thành “cứ điểm chuyển hóa tài sản ở nước ngoài”. Nếu ông ta không phải là phương trượng, thì ông ta chính là một trong những doanh nhân giỏi tiếp thị nhất trong thế giới Hoa ngữ. Nhưng đáng tiếc, ông ta lại là phương trượng. Đây chính là điểm mà toàn bộ tín chúng Trung Quốc khó chấp nhận nhất. Bạn có thể thuyết phục chúng tôi rằng Phật Tổ bố thí là vì lợi ích chúng sinh, nhưng đừng nói rằng Phật Tổ cũng phải bán vé, đàm phán bản quyền, làm chuỗi cửa hàng. Đáng tiếc, Thích Vĩnh Tín đã đi con đường này một cách triệt để. Thích Vĩnh Tín chưa bao giờ là một người tu hành. Ông ta là một nhà quản lý chuyên nghiệp khoác áo cà sa, là Giả Dược Đình của giới tăng lữ, là Mã Vân phiên bản tôn giáo.

MƯỜI NĂM TRƯỚC ĐƯỢC BẢO KÊ, MƯỜI NĂM SAU BỊ TRẢM, TẠI SAO?

Ngay từ năm 2015, đã có một người tự xưng là “Thích Chính Nghĩa” đứng ra tố cáo ông ta trên mạng với đầy đủ tên tuổi, với đủ các tội danh từ nhân tình, con riêng, hai thân phận, che giấu tài sản, thậm chí cả sổ hộ khẩu có tên cháu ngoại cũng bị lôi ra. Tin tức lúc đó nóng đến bỏng tay. Kết quả thì sao? Đài truyền hình trung ương CCTV đứng ra minh oan cho Thích Vĩnh Tín, Hiệp hội Phật giáo lên tiếng ủng hộ, công an và các cơ quan tôn giáo cùng vào cuộc điều tra, cuối cùng kết luận một câu “không đủ bằng chứng”. Chưa hết, truyền thông của đảng thậm chí còn mời cả nhà văn Kim Dung ra mặt, mượn tiểu thuyết để nói rằng nếu Bắc Tống không điều tra vụ con riêng của phương trượng Thiếu Lâm, thì sẽ không có đại nạn võ lâm, Tiêu Phong sẽ không chết, Đoàn Dự sẽ không cô độc ở Đại Lý, Cái Bang sẽ không suy yếu, và nỗi nhục Tĩnh Khang sẽ không xảy ra, Bắc Tống cũng sẽ không bị nhà Kim diệt vong. Quý vị có hiểu ý không? Ý của truyền thông đảng lúc đó rất rõ ràng: nếu điều tra con riêng của Thích Vĩnh Tín, Trung Quốc sẽ vong quốc.

Kết quả rất rõ ràng: người tố cáo biến mất, Thích Vĩnh Tín không những không ngã ngựa mà còn ngồi vững trên ghế phương trượng, ba năm sau còn được thăng chức Phó hội trưởng Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, tiếp tục làm “nhà sư cấp quốc gia”, tiếp tục sản xuất con riêng và để cho Trung Quốc trường tồn vĩnh cửu. Điều này khiến người ta không khỏi thắc mắc. Mười năm trước, cả mạng xã hội kêu gào đòi xử lý, trung ương không những im lặng mà còn quay lại ủng hộ cha của những đứa trẻ ngoài giá thú. Mười năm sau, ông ta bị “mời đi” trong đêm, Hiệp hội Phật giáo lập tức ra tay khai trừ. Lẽ nào lần này trung ương đảng không sợ vong quốc nữa? Rốt cuộc điều gì đã thay đổi? Nói trắng ra, một nhà sư cao cấp có bị hạ bệ hay không, không phải xem ông ta có vấn đề hay không, mà là xem ông ta còn có ích hay không.

Năm 2015, Thích Vĩnh Tín rất có ích. Có ích cho ai? Cho đảng. Thời điểm đó, Trung Cộng vừa bước vào giai đoạn sốt sắng “mạnh mẽ đẩy mạnh văn hóa Trung Quốc ra thế giới”. Viện Khổng Tử, văn hóa võ thuật, giao lưu Phật giáo đều là những sản phẩm xuất cảng chủ lực. Thiếu Lâm Tự là một thương hiệu vang dội. Thích Vĩnh Tín có thể nói tiếng Anh, biết làm báo cáo, khéo léo trong giao tiếp, còn dẫn theo một đám tiểu hòa thượng công phu đi lưu diễn khắp nơi. Đối với người ngoài, ông ta là đại diện cho hình ảnh hòa bình của tôn giáo Trung Quốc. 

Đối với hệ thống, ông ta là một “bảng hiệu sống” có thể chạy việc, kiếm tiền và giữ vững vị thế. Khi đó, ông ta được gọi là “Thích Vĩnh Tín” không phải vì giới luật, mà vì ông ta có thể đứng ra bảo chứng cho “hệ thống tín dụng vĩnh cửu” trong chính sách ngoại giao của Trung Cộng. Do đó, những bê bối tham nhũng, sổ hộ khẩu của nhân tình, các lỗ hổng trong sổ sách kế toán, tất cả đều không quan trọng. Chỉ cần bạn có ích cho đảng, mọi người sẽ coi như không thấy. Chỉ cần bạn còn có thể kiếm tiền, bạn có thể tiếp tục đốt hương thu tiền vé. Hơn nữa, càng tham nhũng, càng nhiều nhân tình, chẳng phải càng giống với các cán bộ của đảng sao? Càng là người thực sự đi theo đảng.

Nhưng đến năm 2025, gió đã đổi chiều. Ba năm đại dịch qua đi, kinh tế đi xuống, tiền công đức trong các ngôi chùa bỗng trở thành dòng tiền mặt mà chính quyền địa phương thèm muốn. Ngay cả chính quyền thành phố Thượng Hải giàu có nhất cũng phải “vay tiền” của Phật tổ. Nghe nói chùa Tĩnh An đóng góp nhiều nhất, nộp lên tới 4.8 tỷ nhân dân tệ tiền hương khói. Hai sự thật đã lộ ra: “chính phủ thực sự nghèo rồi, và các nhà sư thực sự giàu”. Vì vậy, phải cướp. Nhưng các ngôi chùa đều sẽ chia sẻ tiền hương khói với đảng, vốn dĩ đã chia sẻ. Tại sao chỉ có Thích Vĩnh Tín, chỉ có Thiếu Lâm Tự lại gặp chuyện?

CHẠM VÀO LẰN RANH ĐỎ: CHUYẾN ĐI VATICAN ĐỊNH MỆNH

Vào tháng 2 năm nay, trong tình huống không có sự ủy quyền chính thức từ Bộ Ngoại giao, cũng không có sự phê chuẩn của Cục Tôn giáo, ông ta đã dẫn một “đoàn đại biểu văn hóa” đi đường vòng đến Vatican, gặp mặt trực tiếp Giáo hoàng Francis, cùng uống một tách cà phê và chụp một bức ảnh. Phải biết rằng, Vatican là quốc gia duy nhất ở châu Âu mà Trung Cộng chưa thiết lập quan hệ ngoại giao và cho đến nay vẫn công nhận Đài Loan. Bạn nói là giao lưu văn hóa, nhưng Trung ương đảng chỉ nhìn vào kết quả. Bạn đưa Phật tổ lên trang nhất của Nhân Dân Nhật Báo không sao, nhưng bạn lại vòng vo đưa “chủ quyền ngoại giao” đến chân Giáo hoàng, thì đó thực sự là chuyện lớn.

Lần này, Bắc Kinh không còn làm ngơ nữa. Từ đầu năm nay, sau khi Thích Vĩnh Tín từ nước ngoài trở về, ông ta đã bị hạn chế xuất cảnh và phải tiếp nhận các cuộc nói chuyện. Tháng 5, Cục Tôn giáo và Ban Thống chiến địa phương đã cử người vào Thiếu Lâm Tự, danh nghĩa là “hỗ trợ quản lý”, thực chất là giám sát chặt chẽ. Đêm 25 tháng 7, Thích Vĩnh Tín “bị mời đi”. Ngày 27/7, chính quyền ra thông báo. Ngày 28/7, Hiệp hội Phật giáo nhanh chóng hủy bỏ giới điệp của ông ta. Quy trình này nhanh đến mức vượt xa mọi vụ xử lý kỷ luật tôn giáo trước đây. Không phải vì ông ta quá xấu xa, mà vì ông ta đã thực sự chạm vào điểm không thể chạm tới: tự mình đi gặp gỡ riêng với một nguyên thủ tôn giáo mà Trung Cộng kiêng kỵ nhất. Đây không phải là tham nhũng, đây là vượt quá giới hạn. Đây không phải là phạm sắc giới, đây là phạm giới chính trị.

Và lằn ranh đỏ của Trung Cộng đối với “ngoại giao nhà sư” rất đơn giản: bạn có thể làm người phát ngôn, nhưng không thể làm đại diện; bạn có thể nhận tiền công đức, nhưng không thể bàn về tự do tín ngưỡng; bạn có thể đến Hoa Kỳ biểu diễn, nhưng không thể gặp riêng Giáo hoàng. Thích Vĩnh Tín đã nhầm lẫn vai trò của mình. Ông ta tưởng mình là “đặc sứ tôn giáo”, nhưng thực tế ông ta chỉ là một “nhà sư có thể sử dụng được”. Khi hệ thống không còn cần bạn, bạn trở thành kẻ gây rối. Khi tiền hương khói trở thành quỹ quay vòng nợ, bạn là một chướng ngại vật cản trở túi tiền. Và khi một sai lầm ngoại giao trở thành một bức ảnh trên báo, bạn không còn là nhà sư, mà là một kẻ vi phạm kỷ luật. Vì vậy, không phải là chuyện của năm 2015 đột nhiên trở nên nghiêm trọng, mà là bạn của năm 2025 đột nhiên không còn giá trị.

KHÔNG PHẢI PHẬT TỬ, MÀ LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG

Đừng quên, ông ta chưa bao giờ là một người thực sự của cửa Phật. Lời này không phải do tác giả Giang Phong nói, cũng không phải do cư dân mạng nói, mà là do chính vị phương trượng già của Thiếu Lâm Tự năm xưa nói. Năm 1987, phương trượng Thiếu Lâm Tự lúc bấy giờ là Thích Hành Chính và phương trượng danh dự Thích Đức Thiền đã hai lần ra quyết định xử phạt nghiêm khắc nhất đối với Thích Vĩnh Tín trong tăng đoàn Phật giáo: “thiên đan”, tức là khai trừ khỏi tăng tịch. Lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1987, lần thứ hai vào tháng 4 năm 1988. Còn có cả văn bản phê duyệt chính thức của Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc. Bạn không thể làm hòa thượng nữa. Lý do là gì? “Vi phạm giới luật, bại hoại đạo đức, không nên tiếp tục ở lại cửa Phật”.

Nhưng ông ta không những không rời đi, mà ngược lại còn trở thành chủ nhiệm Ban quản lý Thiếu Lâm Tự, sau đó là trụ trì, rồi phương trượng, rồi phó hội trưởng. Làm thế nào ông ta làm được điều đó? Rất đơn giản, không phải dựa vào sự phù hộ của Phật tổ, mà là sự nâng đỡ của hệ thống. Hai vị trưởng lão của cửa Phật, toàn thể tăng chúng đều nói không được, cuối cùng nhà nước ra một kết luận, người này trở thành “phương trượng hợp pháp”. Ông ta tin vào ĐCSTQ, không tin vào Phật, vốn dĩ không phải là người của cửa Phật. Vì vậy, kết quả ngày hôm nay cũng không có gì oan uổng, bởi vì không phải cửa Phật xem xét sự tu hành của ông ta, mà là đảng và nhà nước xem xét sự cống hiến của ông ta.

THU HỒI TÀI SẢN PHẬT MÔN: KHI NHÀ NƯỚC “MƯỢN TIỀN” CỦA PHẬT

Tại sao một nhà sư mang tiếng xấu suốt mười năm, đầy rẫy tin tức tiêu cực, thậm chí cả thanh quy giới luật cũng bị chà đạp, lại có thể xây dựng một ngôi chùa ngàn năm tuổi thành một IP quốc tế, có thể mở hàng chục trung tâm văn hóa ở châu Âu, Mỹ, Úc, Nhật, tổ chức thiền tu, mở võ đường, tổ chức diễn đàn, thậm chí còn lên Liên Hợp Quốc nói về biến đổi khí hậu? Bởi vì thứ ông ta xây dựng không phải là một ngôi chùa, mà là một mạng lưới kinh doanh tôn giáo hoàn toàn hiện đại hóa, tư bản hóa, và phi tập trung hóa. Đây chính là phần mà Trung Cộng vừa ghen tị nhất, vừa lo sợ nhất. Thích Vĩnh Tín không phải bị bắt vì phạm lỗi, mà là bị “thu hồi”.

Hệ thống của ông ta không chỉ mang lại dòng tiền mặt ổn định mà còn có thể linh hoạt phân bổ tài sản ở nước ngoài, trở thành một “mô hình vốn phi tập trung hóa kiểu tôn giáo”. Theo hệ thống quản lý tôn giáo hiện hành của Trung Cộng, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của các cơ sở tôn giáo phải thuộc về tài sản tập thể, về lý thuyết thuộc quyền quản lý chung của “tập thể chùa và cơ quan chủ quản”. Không được phép mở tài khoản riêng, không được tự do đầu tư, và càng không được thiết lập các kênh chuyển tiền ra nước ngoài. Nhưng hệ thống “Thiếu Lâm” của ông ta đã hoàn toàn vi phạm tất cả những điều này. Nó đã thực sự nằm ngoài những khuôn khổ đó.

Điều này dẫn đến một vấn đề rất nhạy cảm: nếu hôm nay muốn thu hồi toàn bộ tài sản của Thiếu Lâm, trước tiên phải phá vỡ “mô hình Thích Vĩnh Tín”. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao mười năm trước những lời tố cáo đó lại bị ém nhẹm. Bởi vì khi đó ông ta vẫn là tài sản của hệ thống. Nhưng mười năm sau, kinh tế đi xuống, nợ địa phương bùng nổ, kinh tế chùa chiền lại phất lên. Miếng thịt béo bở “tự thu tự chi, không cần ngân sách mà còn có thể tạo ra dòng tiền” này làm sao không khiến hệ thống động lòng?

Năm 2024, thành phố Thượng Hải bị phanh phui việc “vay tiền hương khói” hàng chục tỷ từ tám ngôi chùa lớn, sau đó bị chính quyền vội vàng bác bỏ. Khách sạn thương mại mà Thích Vĩnh Tín đầu tư 4.5 tỷ đã gây ra tranh cãi về quyền sở hữu tài sản. Đầu năm 2025, ông ta từ nước ngoài trở về liền bị hạn chế xuất cảnh, cho thấy giới lãnh đạo cấp cao đã nghi ngờ về “khả năng kiểm soát” của ông ta. Vì vậy, không phải ông ta đột nhiên phạm lỗi ở đâu, mà là toàn bộ cấu trúc của ông ta đã trở nên quá giàu có, quá độc lập, quá linh hoạt, và quá không cần sự chỉ huy của tổ chức. Điều này khiến Thiếu Lâm Tự không còn là một “đối tượng bị thống nhất”, một công cụ thống nhất, mà là một “nút tài nguyên có nguy cơ mất kiểm soát”. Đây mới là lý do thực sự đã hạ bệ ông ta.

SỰ SỤP ĐỔ CỦA MẠNG LƯỚI THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI

Trong bố cục toàn cầu của Trung Cộng, tôn giáo chưa bao giờ chỉ đơn thuần là tự do tín ngưỡng, mà là một loại “tài sản văn hóa mang nhiệm vụ chính trị”. Thiếu Lâm Tự thời Thích Vĩnh Tín, từ Trung Quốc vươn ra thế giới, được chính quyền coi là “ngọn cờ tiên phong của văn hóa tôn giáo trên Vành đai và Con đường”. Đây chính là một công trình mẫu cho loại tài sản này. Dưới sự chủ trì của ông, Thiếu Lâm Tự đã thành lập các trung tâm văn hóa, trường võ thuật và các khóa thiền tu tại gần 300 thành phố trên toàn thế giới. Từ lớp học công phu đến các buổi giảng Phật pháp, từ nhà hàng chay đến nhà thuốc Thiếu Lâm, bất cứ thứ gì cũng có thể mở, bất cứ thứ gì cũng có thể bán, bất cứ thứ gì cũng có thể treo một tấm biển nói rằng đây là văn hóa truyền thống Trung Quốc, trở thành một tấm danh thiếp đối ngoại.

Tất cả những điều này không phải là ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc chiến lược rõ ràng. “Tôn giáo đi ra ngoài” là một thuật ngữ hành động chính sách của Trung Cộng, nằm ở giao điểm của ba mặt trận: thống nhất, xuất cảng văn hóa và ngoại giao. Đặc biệt sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền, nó đã được thúc đẩy một cách có hệ thống. Đó là lý do tại sao vào năm 2015, khi ông ta gặp chuyện, ông ta lại được bảo vệ.

Khi mạng lưới này càng được mở rộng, càng đi xa, khi nó vượt ra ngoài phạm vi kiểm soát của Bắc Kinh, thậm chí còn có nguồn tài chính độc lập, tư cách pháp nhân ở nước ngoài và ảnh hưởng đối với cộng đồng dân sự địa phương, thì nó không còn chỉ là một “mạng lưới thống nhất” nữa, mà có khả năng trở thành một “mạng lưới ngầm” có thể quay lại cắn chủ. Đặc biệt là vào một thời điểm khó khăn cả trong và ngoài nước như năm 2025, Trung Nam Hải đột nhiên nhận ra rằng mạng lưới tôn giáo hải ngoại mà họ đã dày công xây dựng suốt hai mươi năm qua đã không còn nghe lời nữa. Những trung tâm Thiếu Lâm rải rác khắp thế giới này, một mặt nắm giữ các kênh chuyển tiền lớn không rõ nguồn gốc, mặt khác lại có những tương tác rất không minh bạch với giới chính trị, cộng đồng người Hoa và thậm chí cả một số thế lực tôn giáo địa phương.

Những cứ điểm này, vốn được dùng để xuất cảng “tiếng nói tốt đẹp của Trung Quốc”, “câu chuyện Trung Quốc”, nhưng nếu một ngày nào đó Thích Vĩnh Tín gặp chuyện ở trong nước, thì những mạng lưới này sẽ trở thành gì? Liệu chúng sẽ là những tổ chức yêu nước đồng thanh đồng khí, hay sẽ trở thành những bàn đạp chính trị quay sang tố cáo nội bộ Trung Cộng cho truyền thông nước ngoài? Rất khó để bảo đảm. Điều này cũng giải thích tại sao ngay khi Thích Vĩnh Tín bị hạ bệ, các tài khoản mạng xã hội liên quan không bị chặn ngay lập tức, mà lại xuất hiện ở nước ngoài, cầm chứng minh thư của ông ta để chứng minh sự tồn tại thực của họ. Cái gọi là “đội ngũ vận hành cộng đồng” của ông ta bắt đầu lên tiếng, nhắm thẳng vào hệ thống Bắc Kinh, tố cáo việc đàn áp tự do tôn giáo và bịa đặt tội danh để trấn áp tăng đoàn Thiếu Lâm.

Đối với Trung Cộng, đây là sự đảo ngược nguy hiểm nhất. Lực lượng thống nhất mà bạn đào tạo ra đã biến thành những nhân chứng tôn giáo có thể cung cấp bằng chứng cho các thế lực bên ngoài. Có thể họ không thể chứng kiến phép màu của tín ngưỡng, nhưng họ chắc chắn có thể chứng kiến các hành động thâm nhập hải ngoại của Trung Cộng. Trước đây, Trung Cộng đang trỗi dậy, Hoa Kỳ đang suy yếu, đây là “công trình hình ảnh”, đi khắp nơi biểu diễn công phu Trung Quốc. Bây giờ, Trung Quốc đối mặt với sự sụp đổ, Hoa Kỳ đang mạnh trở lại, cuộc bao vây Trung Cộng đang diễn ra toàn diện. Vậy thì, những nhà sư, những chính trị gia khoác áo cà sa đến vì lợi ích, tự nhiên sẽ dễ dàng phản bội vì lợi ích nhất. Vì vậy, Thiếu Lâm Tự từ một công trình hình ảnh đã biến thành một kho thuốc nổ. Thích Vĩnh Tín ngã ngựa, không chỉ là một nhà sư xong đời, tác giả cho rằng đây là một dấu hiệu của sự đứt gãy nghiêm trọng trong mạng lưới thống nhất, là sự mất kiểm soát đối với tài sản văn hóa mà Trung Cộng đã dày công vun đắp trong nhiều năm, là một tiếng nổ âm thầm khi chính quyền tự cắt đuôi của mình.