Tác giả: Lan Âm

Năm Nguyên Hòa thứ 11 (816), đã chứng kiến một sự kiện trọng đại trong lĩnh vực âm nhạc và thi ca của nhà Đường. Một vị cao tăng ngoại quốc đã đặt chân đến Trường An, Trung Thổ. Ngài mang theo một cây cổ cầm dài tám thước và làm kinh động cả kinh thành bằng tài nghệ chơi đàn siêu việt của mình.

Vị cao tăng đi khắp nơi bái kiến các danh sĩ văn học để xin thơ. Lý Hạ có thơ rằng: “Lương quán văn huyền kinh bệnh khách, dược nang tạm biệt long tu tịch” (Nơi quán lạnh nghe tiếng đàn, khách bệnh giật mình, túi thuốc tạm rời chiếu râu rồng). Vần thơ tuyệt đẹp đã truyền bá rộng rãi câu chuyện kỳ diệu về vị cao tăng dùng tiếng đàn để chữa bệnh.

Còn có một văn sĩ trung niên khác, cũng cảm động trước những giai điệu trầm bổng, đã vung bút làm thơ. Nhờ bài thơ của ông, hậu thế đã ghi nhớ tên của vị cao tăng, và cũng mãi mãi ghi nhớ thứ âm nhạc xuất thần nhập hóa ấy. Bài thơ đó chính là “Thính Dĩnh Sư Đàn Cầm” (Nghe Sư Dĩnh Gảy Đàn) của Hàn Dũ:

暱暱兒女語,恩怨相爾汝。
劃然變軒昂,勇士赴敵場。
浮雲柳絮無根蒂,天地闊遠隨飛揚。
喧啾百鳥群,忽見孤鳳凰。
躋攀分寸不可上,失勢一落千丈強。
嗟余有兩耳,未省聽絲篁。
自聞穎師彈,起坐在一旁。
推手遽止之,濕衣淚滂滂。
穎乎爾誠能,無以冰炭置我腸。

Nật nật nhi nữ ngữ, ân oán tương nhĩ nhữ.
Hoạch nhiên biến hiên ngang, dũng sĩ phó địch trường.
Phù vân liễu nhứ vô căn đế, thiên địa khoát viễn tuỳ phi dương.
Huyên châu bách điểu quần, hốt kiến cô phượng hoàng.
Tễ phan phân thốn bất khả thượng, thất thế nhất lạc thiên trượng cường.
Ta dư hữu lưỡng nhĩ, vị tỉnh thính ti hoàng.
Tự văn Dĩnh sư đàn, khởi toạ tại nhất bàng.
Thôi thủ cự chỉ chi, thấp y lệ bàng bàng.
Dĩnh hồ nhĩ thành năng, vô dĩ băng thán trí ngã trường.

Dịch thơ (ra thể lục bát)

Thương như con trẻ thầm thì
Hờn yêu chan chứa những gì cho nhau
Bỗng nhiên bay vút lên cao
Như đoàn dũng sĩ ào ào ra quân.
Lúc mây trôi, liễu tơ vần
Đất trời muôn dặm tung tăng cánh trời.
Trăm chim ríu rít gọi mời
Bỗng con phượng lẻ giữa đời vút bay.
Cheo leo từng tấc khó thay
Sẩy chân ngã xuống sâu dày nghìn thu.
Than ôi tai có như mù
Tiếng tơ tiếng trúc mịt mù bấy nay.
Từ nghe Sư Dĩnh đàn hay
Lòng bồn chồn quá, bên này chẳng yên.
Vội xua tay dứt tiếng đàn
Áo quần đẫm lệ chứa chan từ giờ.
Sư ơi, tài quá bất ngờ!
Đừng đem băng giá, than tro đốt lòng!

Phân tích thi cảnh

Bài thơ mô phỏng tiếng đàn cổ cầm này rất được các đời sau ca ngợi. Nhà bình luận thơ thời nhà Thanh, Phương Phù Nam, đã xếp nó cùng với “Lý Bằng Không Hầu Dẫn” của Lý Hạ và “Tỳ Bà Hành” của Bạch Cư Dị là “văn chương mô tả âm thanh đến mức tuyệt đỉnh”, ca ngợi rằng “Hàn Dũ đủ sức làm kinh động trời cao, Lý Hạ đủ sức làm quỷ khóc, Bạch Cư Dị đủ sức làm lay động lòng người”.

“Trong bài «Nghe Sư Dĩnh Gảy Đàn», tiếng đàn đột nhiên trở nên hùng tráng, cao亢, tựa như có ngàn quân vạn mã xông ra chiến trường, tả xung hữu đột, tạo nên một bức tranh chiến trận hào hùng, phóng khoáng. Ảnh là một phần của cuộn tranh «Sơn Âm Hội Chiến Đồ» thời Bắc Tống. (Miền công cộng)”

“Nghe Sư Dĩnh Gảy Đàn” có tổng cộng 18 câu, có thể chia thành hai tầng ý lớn. Mười câu đầu thể hiện tiếng đàn của Sư Dĩnh, tám câu sau mở ra cảm nhận của tác giả khi thưởng thức âm nhạc.

“Thân thiết như lời con trẻ, Yêu ghét bên nhau thủ thỉ.” (Nghĩa gốc: Nicker nicker, nhi nữ ngữ, ân oán tương nhĩ nhữ). Phần mở đầu đã rất thu hút. Nhà thơ dùng phép so sánh, lấy lời thủ thỉ tâm tình, kề vai áp má của con trẻ để miêu tả tiếng đàn dịu dàng, trong sáng, uyển chuyển và tinh tế. Tiếng đàn lấy tình ý ngọt ngào làm chủ đạo, đồng thời bao hàm cả những cảm xúc phức tạp hờn giận vu vơ đặc trưng của những người đang yêu. Nhà thơ đã nắm bắt một cách nhạy bén những cảm xúc vi diệu trong tiếng đàn và thể hiện chúng qua những cảnh sinh hoạt quen thuộc, giúp người đọc dễ dàng lĩnh hội.

Từ “hoạch nhiên” (劃然) cho thấy tiếng đàn đột nhiên từ quyến luyến đa tình chuyển sang hùng tráng, cao vút, tựa như có ngàn quân vạn mã xông ra chiến trường, tả xung hữu đột, tạo nên một bức tranh chiến trận hào hùng, phóng khoáng. Nhà thơ đồng thời sử dụng các phép tu từ so sánh, thông cảm (synesthesia), biến âm thanh thoáng qua thành những cảnh tượng tưởng tượng đầy màu sắc và âm thanh. Tiếp theo, ông liên tục tạo ra một loạt các cảnh tượng khác nhau để khắc họa những đoạn nhạc khác nhau, những ví von tuyệt diệu nối tiếp nhau, khiến người nghe không kịp nghe, người xem không kịp nhìn.

Giai điệu ấy muôn vàn biến chuyển, lúc thì du dương vươn cao, như mây nổi trôi giữa trời, tơ liễu bay theo gió; lúc thì phức tạp ồn ào, như trăm loài chim đua nhau hót; lúc lại trong trẻo vang vọng, như phượng hoàng một mình bay lượn cất tiếng ca. Âm điệu của đàn còn cao thấp xen kẽ, khó mà nắm bắt, lúc thì vút thẳng lên cao, khó khăn như leo lên đỉnh núi; hoặc đột ngột rơi xuống, chuyển biến nhanh như dòng thác đổ.

Nhà thơ bắt đầu từ âm thanh, tập trung bút lực để mô tả cõi diệu kỳ của âm nhạc. Ông không miêu tả kỹ thuật của người chơi đàn, môi trường biểu diễn hay các yếu tố khác, điều này không chỉ giúp người đọc tập trung vào bản thân âm nhạc, theo chân nhà thơ trải nghiệm trọn vẹn bản nhạc; mà còn phản ánh trạng thái “vong ngã” (quên cả bản thân và sự vật) của nhà thơ trong quá trình thưởng thức, từ đó làm nổi bật kỹ năng siêu việt của Sư Dĩnh.

Phần thứ hai, nhà thơ dùng tình cảm dạt dào, lời lẽ khoa trương để biểu đạt sự chấn động mà âm nhạc mang lại, đồng thời trực tiếp hơn nữa ca ngợi tài nghệ của Sư Dĩnh. Ông trước hết tự khiêm, than thở rằng mình có hai tai mà không hiểu được thanh âm của đàn sáo, không thể nói hết được chân lý của tiếng đàn. Dù vậy, nhà thơ vẫn vô cùng cảm động: theo sự biến đổi của âm nhạc, ông đứng ngồi không yên, sau đó càng xúc động tột độ, lệ rơi như mưa. Ông cảm thấy không thể chịu đựng được những con sóng tình cảm mãnh liệt, không dám nghe hết, vội vàng xua tay ngăn lại.

Thông thường, người ta nghe nhạc hay thì không bao giờ chán, nhưng nhà thơ lại làm ngược lại, dùng hành động từ chối nghe đàn để làm nổi bật kỹ thuật tuyệt diệu và tình cảm rung động lòng người chứa đựng trong tiếng đàn. Hai câu cuối dùng lời lẽ tưởng như oán trách nhưng thực chất là kinh ngạc để bày tỏ lòng mình, một lần nữa tô đậm sức truyền cảm của tiếng đàn. Nhà thơ cảm thán, tiếng đàn của Sư Dĩnh thật phi thường, xin đừng đặt cả băng và than vào lòng mình cùng một lúc, đừng để mình khi thì đau thương, khi thì vui sướng, liên tục chịu đựng những biến động tình cảm mãnh liệt!

Một bản nhạc thoảng đến rồi đột ngột dừng lại, cả bài thơ cũng được viết đầy biến hóa, khí thế tung hoành ngang dọc. Cảnh trong khúc nhạc tựa như bốn bức tranh cuộn, người đọc theo từng câu thơ mà dời bước đổi cảnh, thưởng lãm vô vàn phong quang. Tình ngoài khúc nhạc, dùng phép “dục dương tiên ức” (muốn đề cao thì trước hết hạ thấp), những hành động khác thường và cảm nhận đặc biệt đã làm nổi bật tài nghệ cao siêu của người chơi đàn và tình cảm nồng đượm của tiếng đàn.

Câu chuyện đằng sau nhà thơ

Vào thời nhà Đường, Hàn Dũ đã là một bậc thầy trên văn đàn, danh thần của một thế hệ; hơn hai nghìn năm sau, ông càng trở thành một nhà văn hào và bậc hiền triết được kính trọng. Chúng tôi đã đọc nhiều tác phẩm của ông, thuộc lòng những câu thơ nổi tiếng trong đó, ví dụ như câu miêu tả cảnh xuân “Thiên giai tiểu vũ nhuận như tô” (Thềm cung mưa nhỏ mịn như bơ) (trong bài “Tảo Xuân Trình Thủy Bộ Trương Thập Bát Viên Ngoại”), hay câu than thở cho người tài không gặp thời “Thiên lý mã thường hữu, nhi Bá Nhạc bất thường hữu” (Ngựa thiên lý thì thường có, nhưng Bá Nhạc thì không thường có) (trong “Mã Thuyết”), và câu giải thích về đạo làm thầy “Sư giả, sở dĩ truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc dã” (Thầy là người truyền đạo, dạy nghề, giải nghi hoặc) (trong “Sư Thuyết”).

“Hàn Dũ giúp dân Triều Châu trừ họa cá sấu, mở trường học, khuyến khích nông tang, khiến bộ mặt Triều Châu hoàn toàn đổi mới. Ảnh là một phần của bức «Hàn Dũ Họa Ký Đồ» của Thẩm Chu (đời Minh). (Miền công cộng)”

Hàn Dũ, tự Thoái Chi, đứng đầu trong “Đường Tống Bát Đại Gia” (Tám nhà văn lớn thời Đường Tống). Thơ văn của ông mộc mạc, không hoa mỹ, khí thế hùng tráng, được mệnh danh là “văn khởi bát đại chi suy” (văn chương làm hưng thịnh lại sự suy vi của tám đời). Ông khởi xướng phong trào Cổ văn, đề xuất các lý thuyết như “văn dĩ minh đạo” (văn để làm sáng tỏ đạo), “khí thịnh ngôn nghi” (khí mạnh thì lời mới hay), có ảnh hưởng quan trọng đến việc phục hưng văn xuôi cổ thể thời Tần Hán. Nhiều bài thơ văn của ông được truyền tụng rộng rãi, trở thành những áng văn bất hủ được mọi người yêu thích.

Tuy nhiên, đóng góp của Hàn Dũ cho đất nước và lịch sử không chỉ dừng lại ở đó. Có lẽ vì “trời muốn giao trọng trách lớn”, cuộc đời Hàn Dũ nhiều lần thăng trầm, số phận gập ghềnh. Nhưng tấm lòng kiên định, trung trực và dũng cảm, cùng lý tưởng Nho gia báo quốc cứu dân đã trở thành niềm tin và chuẩn mực cho ông trong cuộc sống, giúp ông vượt qua từng giai đoạn khó khăn của cuộc đời và để lại nhiều giai thoại đẹp.

Hàn Dũ là một học trò xuất thân hàn vi, mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, được anh trai và chị dâu nuôi dưỡng. Ông chăm chỉ học hành từ nhỏ, năm mười tám tuổi một mình đến Trường An tìm đường quan lộ. Ông ở kinh thành mười năm, tham gia bốn kỳ thi khoa cử, ba kỳ thi tuyển quan của bộ Lại, đều không đỗ đạt. Trong thời gian này, ông cô đơn khốn khó, đến nhờ cậy người thân không được, dâng thư tự tiến cử cũng vô ích; tin dữ chị dâu đột ngột qua đời khiến tâm trạng u uất vì không được toại chí của ông càng thêm một màu bi thương.

Ông buồn bã rời kinh thành, hai lần làm mạc liêu (chức quan phụ tá), đến năm ba mươi hai tuổi trở lại Trường An và cuối cùng đã đỗ trong kỳ thi tuyển quan lần thứ tư, lần lượt giữ các chức vụ như Quốc tử giám Bác sĩ, Giám sát Ngự sử, Trung thư Xá nhân.

Khi làm học quan, Hàn Dũ là tấm gương cho mọi người, coi trọng giáo dục, hết lòng đào tạo và tiến cử nhân tài. Ông còn viết các bài văn như “Tiến Học Giải” để tha thiết giải thích tầm quan trọng của giáo dục, để lại lời hay ý đẹp “nghiệp tinh ư cần, hoang ư hi” (sự nghiệp tinh thông là do siêng năng, hoang phế là do ham chơi). Khi làm ngôn quan, Hàn Dũ càng thẳng thắn chính trực, không sợ quyền quý, với niềm tin “quân tử cư kỳ vị, tắc tư tử kỳ quan” (người quân tử ở chức vị nào thì phải nghĩ đến việc chết vì chức vị đó) (trong “Tranh Thần Luận”), nhiều lần dâng sớ can gián, cũng vì thế mà nhiều lần bị biếm chức, chí lớn khó thực hiện.

Tuy nhiên, “địa vị thấp nhưng không dám quên lo cho nước” (vị ti vị cảm vong ưu quốc), dù bản thân bị biếm chức hay đất nước gặp nguy nan, ông đều ghi nhớ sứ mệnh báo quốc, thể hiện phẩm chất của một hiền thần trung nghĩa vô tư. Ông từng bị giáng làm Thứ sử Triều Châu, viết nên câu thơ bi thương “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại, tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền” (Mây giăng Tần Lĩnh nhà đâu tá, tuyết lấp Lam Quan ngựa chẳng đi). Nhưng sau khi nhậm chức, ông đã giúp dân trừ cá sấu, mở trường học, khuyến khích nông nghiệp, khiến bộ mặt Triều Châu hoàn toàn đổi mới. Dù khi còn sống hay đã mất, Hàn Dũ đều nhận được sự kính trọng và tưởng nhớ mãi mãi của người dân Triều Châu.

Khi phiên trấn Hoài Tây nổi loạn, Hàn Dũ tự xin theo quân xuất chinh, và trong quân nhiều lần hiến kế, giúp quân Đường kết thúc cuộc chiến kéo dài hơn ba mươi năm. Sau khi Hoài Tây được bình định, các phiên trấn cát cứ lần lượt quy thuận nhà Đường. “Chạy vội cùng về, chung hưởng thái bình” (Bôn tẩu giai lai, đồng ngã thái bình), Hàn Dũ đã viết “Bình Hoài Tây Bi” để kỷ niệm, một lần nữa để lại một tác phẩm kinh điển bất hủ.

Sau này khi Trấn Châu có binh biến, Hàn Dũ năm mươi bốn tuổi với tư cách là Tuyên úy sứ, phụng mệnh đi sứ, hội kiến với viên tướng phản loạn tàn bạo của Trấn Châu là Vương Đình Thấu. Trăm quan lo cho tính mạng của ông, hoàng đế cũng hạ chỉ thu hồi mệnh lệnh. Nhưng Hàn Dũ nói: “Tạm dừng nhiệm vụ đi sứ là lòng nhân từ của quân vương đối với tôi; nhưng chết vì nước là đạo nghĩa mà kẻ làm tôi phải thực hiện.” Ông kiên quyết một mình đến gặp, không sợ thanh thế gươm giáo tuốt trần trong doanh trại địch, phân tích cho Vương Đình Thấu về số phận khác nhau giữa quy thuận và phản loạn, cuối cùng đã không làm nhục sứ mệnh.

Người ta thường nói văn như người, ngay cả khi đọc một bài thơ thưởng thức âm nhạc như “Nghe Sư Dĩnh Gảy Đàn”, chúng ta cũng có thể thấy được hình ảnh chính trực và ngạo nghễ của Hàn Dũ:

Người dũng sĩ xông ra chiến trường, cũng như Hàn Dũ khi theo quân, khi đi sứ, có khí phách “dù có ngàn vạn người, ta vẫn cứ đi”; những đám mây trôi, sợi tơ liễu phiêu bạt, giống như Hàn Dũ khi sống ở Trường An, có nỗi bàng hoàng, mất mát “Trường An trăm vạn nhà, ra cửa không biết đi về đâu”; và tiếng phượng hoàng lẻ loi cất lên, dù cao hay thấp cũng không thay đổi phong thái độc lập giữa đời, chính là sự khắc họa nghệ thuật về việc Hàn Dũ cả đời kiên giữ tấm lòng, lo cho nước cho dân.

Theo Epoch Times