Hồ Học Lãm là một con người rất đặc biệt. Xung quanh cuộc đời ông có rất nhiều câu chuyện thú vị.

Họ Hồ (cùng với các họ khác như họ Triệu, họ Hoàng) về khai thác vùng đất Thổ Đôi Trang – nay gọi là Quỳnh Đôi – Nghệ An, từ đầu thế kỷ XIV. Tính từ thời điểm khai hoang lập đất thuở đó cho đến khoa thi chữ Nho cuối cùng dưới triều Nguyễn ở nước ta, họ Hồ đã có gần 60 tiến sĩ và phó bảng, hơn 100 cử nhân.

Nhiều người trong dòng họ Hồ từng là tướng lĩnh cầm quân, Đại quan triều đình, có người từng làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư… Một trong những người con ưu tú của dòng họ Hồ sau này chính là Hồ Học Lãm, một chí sỹ yêu nước với tư tưởng trung lập. Sinh thời ông là bạn học và cũng là người có công cứu sống Tưởng Giới Thạch – Lãnh tụ của Quốc dân Đảng thời cách mạng Trung Hoa.

Thân thế

Hồ Học Lãm, tên khai sinh là Hồ Xuân Lan, là con của sỹ phu yêu nước Hồ Bá Trị (?-1886) và bà Trần Thị Trâm (1861-?), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Trần Thị Trâm, tục gọi là Bà Lụa, sinh thời từng tham gia phong trào Cần Vương và Đông Du của hai nhà yêu nước Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu, và được mệnh danh là “Tiểu Trưng”. Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm có hai người con trai là: Hồ Xuân Kiêm và Hồ Xuân Lan (Hồ Học Lãm).

Bác ruột của Hồ Học Lãm là Hồ Bá Ôn (từng giữ chức quan Án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh với Pháp giữ thành Nam Định). Cha mất sớm vì bị người Pháp giết hại năm 1886, Hồ Học Lãm lúc này mới được 2 tuổi cùng người anh là Hồ Xuân Kiêm sống với mẹ. Bà Trần Thị Trâm vốn là con gái của Tiến sĩ – Quan Tri phủ Trần Hữu Dực. Vì bà thường sắm vai buôn lụa để tham gia hoạt động yêu nước của lãnh tụ Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu nên còn có tên là “bà Lụa”.

Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của mẹ, Hồ Học Lãm sớm ý thức về lòng yêu nước. Năm 1906, hưởng ứng phong trào Đông Du, ông Lãm sang Nhật du học. Ngày con trai xuất dương bà Trần Thị Trâm – mẹ ông, đã tiễn con đến tận Hải Ninh thuộc biên giới Việt Trung để đi Quảng Châu. Trước khi chia tay con, bà xé chiếc khăn đang đội trên đầu làm hai mảnh, một mảnh đưa cho con và dặn: “Cái khăn này được dệt ra là để rửa mặt cho con người. Con sinh ra là để rửa nhục đất nước. Con ra đi chuyến này sẽ gặp khó khăn, nhưng không được bỏ việc giữa chừng”…

Trong cuốn hồi ký “Hồi tưởng về cha tôi – Hồ Học Lãm”, cô Hồ Mộ La cũng có kể rằng: khoảng năm 1906 – 1907, ông Hồ Học Lãm cùng một số thanh niên Việt Nam được cụ Phan Bội Châu đưa sang Nhật học theo phong trào Đông Du. Ở Nhật Bản, được hoàng thân nhà Nguyễn lúc bấy giờ là ông Nguyễn Cường Để giúp đỡ, đoàn lưu học sinh được sắp xếp vào học trường võ bị Chấn Vũ.

Đầu năm 1907, đoàn lưu học sinh Việt Nam bắt đầu học cấp tốc tiếng Nhật 3 tháng, sau đó vừa học tiếng vừa học lý thuyết quân sự cũng như cách sử dụng một số loại súng.

Một số nhân vật tham gia phong trào Đông Du do Phan Bội Châu dẫn đầu. (Ảnh: Pinterest)

Quen biết và trở thành bạn thân của Tưởng Giới Thạch

Khoảng đầu năm 1908, Tưởng Giới Thạch cũng vào học trường Chấn Vũ và làm quen với một số bạn học. Đặc biệt, trong số đó Tưởng Giới Thạch chơi rất thân với ông Hồ Học Lãm.

Bà Hồ Mộ La viết trong hồi ký rằng ông Hồ Học Lãm từng kể về người bạn Trung Quốc này như sau: “Tưởng Giới Thạch khôi ngô, tuấn tú, rất thông minh. Thực ra anh ta là thân tín của Trần Kỳ Mỹ, một trong những lãnh tụ trong Đồng Minh Hội của Tôn Trung Sơn… Có lần, anh ta nhờ mình viết luận văn trả bài thi, có lẽ là do bận hoạt động chính trị nên thường xuyên vắng mặt ở lớp. Mình học có giỏi giang gì đâu, chẳng qua dân xứ Nghệ quen học gạo, cho nên có kết quả học tập trội hơn một tý…”.

Năm 1908, do người Pháp gây áp lực, Chính phủ Nhật trục xuất lưu học sinh Việt Nam. Ông Hồ Học Lãm theo cụ Phan Bội Châu sang Trung Quốc. Nhờ Ông Tưởng Giới Thạch giới thiệu, ông tiếp tục học trường quân sự có tên: “Thông quốc lục quân tốc thành học đường” – tiền thân của trường sĩ quan lục quân Bảo Định sau này. Ông Hồ Học Lãm tốt nghiệp trường quân sự tại Bảo Định năm 1911.

Trong thời gian học tại Bảo Định, Ông Hồ Học Lãm cũng từng quen thân với một số người bạn Trung Hoa như Ông Bạch Sùng Hy, Ông Lý Tế Thâm. Những người này sau đó đều là tướng tá nổi tiếng của Trung Hoa Dân Quốc. 

Ông Hồ Học Lãm theo cụ Phan Bội Châu sang Trung Quốc vì bị Pháp gây áp lực lên Nhật Bản ép trục xuất những người theo phong trào này. (Ảnh: VOV)

Cứu mạng Tưởng Giới Thạch và trở thành sỹ quan trong Bộ tổng tham mưu của quân đội Trung Hoa Dân Quốc

Tháng 11/1911, khởi nghĩa Vũ Xương rồi cách mạng Tân Hợi thắng lợi, Tưởng Giới Thạch từ Nhật về Trung Quốc hoạt động ở tỉnh Chiết Giang. Ông Tưởng đã viết thư cho Ông Hồ Học Lãm rủ về Chiết Giang tham gia hoạt động cùng. Nhận thư Tưởng, ông Hồ Học Lãm có viết thư hỏi cụ Phan Bội Châu và được ủng hộ với đại ý: “Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn nếu không thành công thì công cuộc cứu nước của mình sẽ khó khăn. Trong lúc chờ thời cơ và rèn luyện qua thực tiễn, cứ tham gia Trung Hoa cách mạng quân”.

Chính trong thời gian này, ông Hồ Học Lãm đã có ân huệ với Tưởng Giới Thạch. Theo Hồi ký “Hồi tưởng về cha tôi Hồ Học Lãm” của bà Hồ Mộ La có viết: “Sau khi giải phóng Hàng Châu và Thượng Hải, ông Tưởng và cha tôi tiếp tục Bắc phạt. Trong một trận ông Tưởng bị quân phiệt Bắc Dương vây hãm nguy khốn, song cha tôi đã kịp thời đem quân đến giải vây, do đó ông Tưởng càng tỏ ra quý mến cha tôi hơn”.

Và ông Hồ Học Lãm đã trở thành một cán bộ quân sự rất có uy tín trong quân đội Trung Hoa dân quốc, được tiến cử về làm việc tại Cục tác chiến với quân hàm cấp tướng. Ông Hồ Học Lãm luôn được đồng nghiệp trong Bộ Tổng tham mưu Trung hoa dân quốc kính trọng vì lối sống hòa nhã, đôn hậu và một phần cũng vì ông là ân nhân của Tưởng Giới Thạch đồng thời cũng là bạn học với các sĩ quan cấp cao như Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm.

Năm 1936, Ông Hồ Ngọc Lãm tham gia tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội”. Với một tâm hồn luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam, ông đã có rất nhiều đóng góp cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Gia đình chí sỹ Hồ Học Lãm. Từ Phải sang, hàng ngồi: Hồ Học lãm, Hồ Mộ La, Ngô Khôn Duy. Hàng sau: Lê Thiết Hùng, Hồ Diệc Lan, Bùi Hải Thiệu.

Năm 1940, Hồ Học Lãm bị suy tim, hen suyễn nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm (Trung Quốc). Ông mất tại Quế Lâm ngày 8 tháng 3 năm Quý Mùi, tức ngày 12 tháng 4 năm 1943, hưởng thọ 60 tuổi. Sự ra đi của ông để lại niềm nuối tiếc khôn nguôi trong giới sĩ phu và nhân dân yêu nước. Trước khi mất ông dặn gia đình hãy thay mình phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng tộc họ Hồ.

Hồ Học Lãm có vợ là bà Ngô Khôn Duy (1893-1980) và hai con gái là Hồ Diệc Lan (1920-1947) và Hồ Mộ La (sinh 1930). Bà Ngô Khôn Duy là con gái của Ngô Quảng, lãnh binh của lãnh tụ Phan Đình Phùng.

Con gái lớn của Hồ Học Lãm là bà Hồ Diệc Lan, kết hôn với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, vị tướng đầu tiên của Quân đội Việt Nam, nhưng vì bệnh hiểm nghèo nên bà Diệc Lan mất từ năm 1947 khi mới 27 tuổi. Người con gái út của gia đình ông Hồ Học Lãm – bà Hồ Mộ La, có năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ nên khi về nước bà được vào học tại trường Nhạc viện và sau này trở thành giảng viên của trường Nhạc viện Hà Nội. Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giáo dục, trước khi nghỉ hưu, bà được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú.

Đường Phong