Tác giả: Lưu Hiểu

Trong các triều đại cổ xưa của Trung Quốc, việc tuyển chọn quan viên đã trải qua mấy giai đoạn: từ chế độ cha truyền con nối và chế độ quân công thụ tước (phong tước dựa vào công lao quân sự) vốn lấy huyết thống và công huân làm cơ sở, đến chế độ sát cử (tiến cử và thi) và cửu phẩm trung chính chế vốn lấy đức hạnh và tài năng làm tiêu chuẩn chính, rồi đến chế độ khoa cử v.v.

Nhiều người trong số các quan viên được tuyển chọn này đều coi trọng đức hạnh của mình, tuân theo chuẩn mực đạo đức Nho gia, khi cai quản một nơi thì có đảm đương, có tinh thần trách nhiệm, cần mẫn vì sự vận hành của quốc gia. Trong sử sách, họ được gọi là “tuần lại” (quan lại mẫn cán), “lương lại” (quan tốt), “liêm lại” (quan thanh liêm). Cuốn «Khuyến Giới Lục» do Lương Cung Thần thời Thanh biên soạn đã ghi lại không ít những quan viên như vậy, hôm nay xin kể câu chuyện về hai vị quan viên có đảm đương. 

Huyện lệnh Trương Khai Vân có gan có tầm nhìn, khi rời nhiệm sở dân chúng không nỡ, hậu nhân được phúc báo

Trương Khai Vân, tự Tễ Quang, hiệu Tình Hồ, là người huyện Nam Bì, Trực Lệ (nay là huyện Nam Bì, tỉnh Hà Bắc). Năm Gia Khánh Đinh Mão (1807) triều Thanh, Trương Khai Vân với thân phận cử nhân đang chờ bổ nhiệm chức khuyết ở tỉnh thành Hồ Bắc. Bấy giờ đúng lúc huyện An Lục gặp đại hạn, thiếu lương thực, thậm chí xuất hiện nạn đói, mấy nghìn dân chúng xông vào nha môn, yêu cầu huyện lệnh dẫn đầu cầu mưa. Dân chúng không chỉ bắt huyện lệnh đi chân trần dưới nắng gắt, mà khi hành lễ trên đàn tế, còn dùng roi liễu quất ông để trút nỗi bất mãn. Có thể nói là dân oán sôi trào, náo loạn không ngừng, e rằng sẽ gây ra sự việc lớn. Huyện lệnh đành phải thỉnh cầu tuần phủ phái người đến thay mình.

Tuần phủ cho rằng chỉ có người có gan có tầm nhìn, có thể gánh vác việc lớn, mới có thể giải quyết ổn thỏa vấn đề của huyện An Lục, mà Trương Khai Vân chính là người như vậy, bèn cử ông đi làm quyền huyện lệnh. Các đồng liêu có quan hệ tốt với Trương Khai Vân đều khuyên ông từ chối, lo lắng ông đến đó sẽ gặp chuyện chẳng lành. Nhưng Trương Khai Vân kiên quyết nhận sự bổ nhiệm, và nói: “Càng gặp cây cối rễ đan chằng chịt, càng thể hiện được sự sắc bén của dụng cụ. Nếu hơi gặp hiểm trở mà đã đùn đẩy trách nhiệm, thì việc thiên hạ còn dựa vào ai làm?”

Trương Khai Vân bèn lên đường đi huyện An Lục ngay trong đêm. Sau khi đến nơi, ông đích thân trình bày đại nghĩa cho dân chúng, nói rõ hậu quả, đồng thời trừng trị mấy người cầm đầu, cũng bày tỏ sẽ cố hết sức giải quyết vấn đề nạn đói, dân chúng đều rất nể phục.

Sau khi điều tra, Trương Khai Vân báo cáo tình hình thiên tai địa phương lên tuần phủ, và xin cấp phát tiền lương cứu tế dân chúng. Bởi vì mấy năm trước, huyện lệnh tiền nhiệm báo cáo giả dối đều là được mùa (đây cũng là lý do vì sao dân chúng oán hận sâu sắc), do đó tuần phủ không tiện phê chuẩn ngay, Trương Khai Vân báo cáo ba lần, cả ba lần đều bị bác bỏ. Trương Khai Vân không nỡ nhìn dân chúng chịu đói, không nỡ thấy họ chết đói, bèn dốc sức vận động các hộ giàu có ở địa phương quyên góp lương thực, bản thân ông còn đi đầu quyên góp tám trăm thạch (đơn vị đo lường) lương thực, đồng thời mở điểm phát cháo (chúc xưởng), cứu tế nạn dân, giúp dân chúng vượt qua cửa ải khó khăn.

Mùa thu năm đó, huyện An Lục được mùa lớn, dân chúng đều rất vui mừng, cũng mang lòng cảm kích Trương Khai Vân.

Trong thời gian tại nhiệm, Trương Khai Vân chỉ dùng mấy tháng đã xử lý xong các vụ án chất như núi của người tiền nhiệm, hơn nữa xử phạt rất công bằng. Vì một lòng bận rộn công vụ, nha môn thường xuyên lo lắng hết gạo ăn, nhưng Trương Khai Vân không để tâm. Dân chúng nghe nói, cảm niệm ơn cứu mạng của ông, tranh nhau mang lương thực và củi lửa đến. Còn có hương thân (người có địa vị ở làng) của huyện Ứng Thành, ủy thác người khác mang ba trăm lượng bạc đến nha môn.

Sau này, khi Trương Khai Vân rời nhiệm sở, dân chúng vô cùng không nỡ, dùng tiếng khóc để tiễn đưa. Ngay cả những người từng bị ông trừng phạt, cũng đốt hương bên đường, dập đầu tiễn biệt. Ở tất cả những nơi ông cai trị, dân chúng đều lập bài vị trường sinh để thờ phụng ông.

Làm quan đến mức độ này, thực sự có thể làm gương và mẫu mực cho các quan viên rồi. Điều này cũng có thể lý giải vì sao con trai ông là Trương Quách Đình có thể kế thừa gia nghiệp, thi đỗ tiến sĩ, vào Hàn Lâm Viện, mà trong số con cháu hậu đại, người thi đỗ khoa cử cũng nối tiếp không dứt.

Tri phủ Dương Cửu Uẩn xử án công minh, khi rời nhiệm sở dân chúng đứng chật hai bên đường tiễn đưa

Dương Cửu Uẩn, tự Dư Điền, đỗ Bảng nhãn khoa Kỷ Mão năm Gia Khánh thứ 24 (1819) triều Thanh. Ông làm quan thanh liêm chính trực. Khi nhậm chức tri phủ phủ Khánh Dương, Cam Túc, ông từng cùng các quan viên bộ ngành thẩm lý một vụ án lớn. Nguyên là, dân chúng huyện Tĩnh Ninh, Cam Túc vô cùng bất mãn với các nha lại trong nha môn, cảm thấy họ xử sự không công bằng, hai bên nảy sinh tranh chấp rồi đưa nhau ra công đường.

Khi thẩm lý, các quan viên bộ ngành cho rằng vụ án này đã bị kiện lên đến kinh thành, do đó có chút e dè, muốn bao che cho bọn nha lại, nhưng Dương Cửu Uẩn kiên quyết không thể làm vậy, mà nên xử lý công tâm. Sau khi nghiêm túc thu thập chứng cứ, thẩm lý cẩn thận, Dương Cửu Uẩn đã trừng trị bọn nha lại, dân oán được xoa dịu, những tệ nạn tích tụ lâu ngày ở địa phương cũng bị dẹp bỏ.

Sau này, Dương Cu Uẩn rời nhiệm sở đến kinh thành, đi qua huyện Tĩnh Ninh, dân chúng địa phương đứng chật hai bên đường tiễn đưa, thậm chí còn kéo càng xe của ông không nỡ rời xa. Dương tri phủ bèn để lại một bài thơ để an ủi, bày tỏ nỗi lòng của mình. Trong thơ có những câu như:

Tòng lai vi chính thiết dân gian,
Huyễn tích phù danh nhất lệ san.
Tằng tiếu Vương Kiều tiên khứ hậu,
Không lưu phù tỉ tại nhân gian.
Mạn vân chiết ngục tín trì bình,
Cảm tuẫn tư tình phụ nhĩ manh.
Lưu xuất bản lai chân diện mục,
Bất tu canh tả thiết tranh tranh.

Dịch thơ:
Làm quan luôn thấu nỗi lầm than,
Huyễn ảnh, phù danh thảy chẳng màng.
Tiên gót Vương Kiều cười đã khuất,
Hão giày trần thế giữ mà mang.
Xử án nào khoe câu chính trực,
Tư tình đâu phụ dạ dân làng.
Bản lai chân diện còn giữ lại,
Cần chi ghi tạc tiếng khang trang.

Lời kết

Trong dòng sông dài lịch sử Trung Quốc, những quan viên “vì trời đất lập tâm, vì dân chúng lập mệnh”, dũng cảm gánh vác trách nhiệm như Trương Khai Vân, Dương Cửu Uẩn thực sự là nhiều không kể xiết, mà họ mới chính là trụ cột vững vàng của các triều đại, mới là dòng chính viết nên lịch sử Trung Quốc.

Theo Epoch Times