Kính trọng thầy của mình không ai bằng Tử Cống mà hoằng dương đạo học, kiên trì bảo vệ thanh danh của thầy cũng khó ai vượt qua được Tử Cống. Tấm gương của ông để lại cho chúng ta bài học sáng ngời về đức “tôn sư trọng đạo”. 

Tử Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ, người nước Vệ cuối thời Xuân Thu, 17 tuổi bái Khổng Tử làm thầy, từ nhỏ đã khiêm tốn hiếu học, am hiểu sâu sắc những đạo lý và tinh túy của Nho học. Ông không những thực hiện và truyền bá học thuyết của Khổng Tử mà còn rất kiên định bảo vệ học thuyết này. Ông thông tỏ đạo lý, lòng dạ trong sáng, ngôn từ thiện lương, giỏi về ngoại giao, từng làm tể tướng hai nước Lỗ và Vệ. Đức Khổng Tử rất yêu mến ông, so sánh ông với tấm liễn thờ trân quý trong miếu đình.

Trong “Luận ngữ tự thuyết” có ghi chép câu chuyện, khi Khổng Tử tạ thế, học trò của ông đều để tang thầy ba năm, riêng Tử Cống dựng nhà cạnh mộ mà ở, thành tâm tưởng nhớ cúng bái, chăm nom bảo vệ tới sáu năm. Ông là tấm gương về tấm lòng tôn sư trọng đạo được người đời sau lưu truyền.

Thấu hiểu đạo học của thầy

Tử Cống thiên bẩm hiếu thảo hiền từ, thông minh tài trí, ba tuổi đã biết phân biệt người thiện ác. Năm mười bảy tuổi, khi đi chơi ở nước Lỗ và được nghe Khổng Tử giảng đạo ở Khuyết Lý, trong tâm nhất mực kính phục xin bái Sư. Ông hiếu học, ham hỏi, trong “Luận Ngữ” phần hỏi đáp giữa Khổng Tử và các đệ tử, ông là người hỏi nhiều nhất. Những nội dung ông thường hỏi nhiều nhất là việc đối nhân xử thế bên ngoài, như nhân nghĩa, chính trị, bằng hữu, trí sĩ, quân tử…, tất cả đều được Khổng Tử giải đáp rõ ràng. Trong đó liên quan tới nhiều phương diện là giá trị cốt lõi của Nho gia như nhân ái, lễ nghi, thành tín, trung dung, trung thành…

Khổng Tử từng nói: “Bất học thi vô dĩ ngôn”, nghĩa là không đọc sách biết lấy gì để nói, “Thi” chính là “Lục kinh” sau này của “Kinh Thi”’. Trong học “Thi”, Khổng Tử không những yêu cầu học trò của mình hiểu được ý nghĩa ban đầu của từ “Thi”, mà còn yêu cầu họ có thể ứng dụng chúng trong từng trường hợp cụ thể. Về phương diện này Tử Cống làm được rất tốt, không những có thể lĩnh hội một cách sâu sắc mà còn có những lý giải vô cùng độc đáo và từng được thầy mình khen ngợi.

Phần “Học nhi” của “Luận ngữ” có ghi chép, khi hai thầy trò đối đáp, Tử Cống có thể vận dụng linh hoạt câu nói: “Hữu phỉ quân tử, Như thiết như tha, như trác như ma” (Có người quân tử, như mài như giũa như cắt như gọt) trong “Vệ Phong, Kinh Thi” để giải thích câu hỏi của thầy. Đức Khổng Tử khen ngợi khả năng lý giải thơ của ông đã đạt tới mức độ tâm lĩnh thần hội, có thể suy luận nắm vững, có thể làm được “Cáo chư vãng nhi tri lai giả” (Nói cho ngươi việc quá khứ, ngươi đã hiểu việc tương lai).

Tử Cống trí lớn, biết vận dụng những điều mình học vào cuộc sống. “Ngôn từ” tài năng xuất sắc, nghệ thuật giao tiếp nói chuyện độc đáo rất có tính cách. Vào thời Lỗ Ai Công, Khổng Tử nghe nói Điền Thường ở Tề Quốc muốn xuất binh tấn công nước Lỗ, liền triệu tập học trò bàn kế sách cứu nước Lỗ. Người nói: “Lỗ là phụ mẫu quốc, nước nhà đang lâm nguy, trong các con ai có thể xuất hành đi xứ?”. Những học trò của ông có nhiều người xin đi, cuối cùng ông chọn Tử Cống xuất hành.

Tử Cống phụng mệnh đi xứ tới năm nước Tề, Lỗ, Ngô, Việt, Tấn, thuyết phục Điền Thường, lại khiến quốc quân bốn nước tiếp thu chủ trương của ông, một hành động mà có thể tác động tới chính trị của năm nước, cũng từ đó cải biến tình thế các nước, cứu nguy nan cho nước Lỗ và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh. Trong “Sử ký” có bình luận về chuyện này như sau: “Tử Cống hễ xuất, làm cho Lỗ tồn tại, làm loạn Tề, phá Ngô, làm Tấn thành hùng mạnh và khiến Việt xưng bá; Tử Cống hễ làm, liền tương phá tình hình, trong mười năm, năm quốc gia thay đổi”. (Tử Cống nhất xuất, tồn Lỗ, loạn Tề, phá Ngô, cường Tấn nhi bá Việt; tử cống nhất sử, sử thế tương phá, thập niên chi trung, ngũ quốc các hữu biến). 

Có khá nhiều sự về Tử Cống trong Khổng môn. Dù ông lập được rất nhiều công lao và nổi danh ở nhiều phương diện, nhưng lại khá khiêm tốn, nghiêm khắc và tự khắc chế bản thân. Trong “Công dã tràng, Luận ngữ” ghi chép câu chuyện: Có lần Khổng Tử hỏi Tử Cống, ý tứ là giữa Tử Cống và Nhan Hồi ai ưu tú hơn? Tử Cống thưa: “Tứ này sao sánh với Hồi! Hồi nghe một biết mười. Tứ này nghe mười biết một, hai mà thôi”. Qua đây cũng có thể hiểu được phẩm chất của Tử Cống như thế nào. Tử Cống thích ca ngợi, nhìn vào phẩm chất tốt đẹp của người khác, đã từng xưng tụng Nhan Hồi: “Người có thể sớm khuya tụng đọc sùng kính lễ, thực hành không tái mắc lỗi, nói năng không vô ý, cẩu thả, thì chỉ có Nhan Hồi”.

Tranh minh hoạ chân dung của Tử Cống (ảnh: Wikipedia).

Bảo vệ thanh danh, uy tín của thầy

Cứ mỗi lần Khổng Tử gặp nguy nan, hiểm ác, Tử Cống thường đứng ra dũng cảm túc trí giúp thầy giải nguy. Năm thứ sáu Lỗ Ai Công, Khổng Tử dẫn theo đệ tử đi chu du các nước, giữa đường cạn kiệt lương thực, tình hình vô cùng nguy cấp liền cử Tử Cống tới nước Sở. Nhận nhiệm vụ trong tình cảnh thầy trò đang ở tình huống lâm nguy, không những ông có thể mang lương thực từ nước Sở về mà còn làm Sở vương dẫn binh tới đón Khổng Tử vào nước Sở để thầy trò thoát khỏi nguy khốn. Năm Lỗ Ai Công thứ 12, khi quốc quân các nước Lỗ, Vệ… đến hội kiến tại nước Ngô, người Ngô đã giam giữ Vệ hầu. Tử Cống đã thuyết phục thái tể nước Ngô thả người. Năm Lỗ Ai Công thứ 15, Tề và Lỗ liên minh, Tử Cống đã thuyết phục nước Tề trả lại “thành” địa vốn thuộc về nước Lỗ.

Một lần, Tề Cảnh Công hỏi Tử Cống về đức hạnh tài năng của Khổng Tử. Ông lập tức trả lời: “Thánh nhân dã, khởi trực hiền tai”, có nghĩa Khổng Tử không chỉ là một nhà hiền triết, mà còn là bậc thánh nhân. Sau đó ông tán dương Khổng Tử: “Tứ này suốt đời đội trời mà không biết trời cao bao nhiêu; suốt đời đạp đất mà không biết đất dầy bao nhiêu. Tứ này theo Ngài Phu tử, cũng y như kẻ khát nước đem gáo, đem bình ra sông, ra bể, để múc nước uống. Uống no bụng rồi đi, mà chẳng biết sông, biển, sâu là bao nhiêu”. (Nguyên văn: Thần chung thân đới thiên, bất tri thiên chi cao dã, chung thân tiễn địa, bất tri địa chi hậu dã, nhược thần chi sự Trọng Ni, thí do khát hồ tiêu, tựu giang hải nhi ẩm chi, phúc mãn nhi khứ, hựu an tri giang hà chi thâm hồ). 

Trong câu này, Tử Cống so sánh thầy mình với trời, đất, biển hồ. Ông nói khi theo học Khổng Tử, ông giống như cầm cái gáo đến uống nước ở hồ, uống no rồi đi mà không biết hồ sâu bao nhiêu. Tề Cảnh Công lại hỏi: “Tiên sinh khen ngợi như vậy, e rằng hơi quá mức không?”. Tử Cống đáp rằng, những từ ngữ ông so sánh Khổng Tử với Thái Sơn, chẳng qua chỉ giống như thêm hai nắm đất đắp vào núi, ngược lại dù bất cứ người nào muốn làm tổn hại danh tiếng của ông, chẳng qua cũng giống như dùng tay đào vứt bỏ hai nắm đất khỏi núi mà thôi. Tất cả đều không làm giảm đi độ cao hiển nhiên của núi. (Nguyên văn: Thần tứ hà cảm thậm ngôn, thượng lự bất cập nhĩ, sử thần dự Trọng Ni, thí do lưỡng thủ phủng thổ nhi phụ thái sơn, kỳ vô ích ô minh hĩ, sử thần bất dự Trọng Ni, thí do lưỡng thủ bả thái sơn, vô tổn diệc minh hỹ). 

Tử Cống luôn giữ gìn bảo vệ danh dự cho thầy mình, không cho phép bất cứ ai phỉ báng nói xấu. Một lần chú của đại phu Thúc Tôn Vũ nước Lỗ hạ thấp Khổng Tử và đề cao Tử Cống. Ông rất tức giận mà đáp rằng: “Chút học vấn bản lĩnh của bản thân chẳng qua chỉ giống như bức tường thấp trong một căn nhà, nhìn một cái là tới tận cùng, còn bản lĩnh học vấn của Phu tử giống như vô số bức tường nguy nga tráng lệ trong tông miếu, bên ngoài không thấy cửa, vào trong cũng không tìm thấy”. (Nguyên văn: Thí chư cung tường, tứ chi tường dã cập kiên, khuy kiến gia thất chi hảo. Phu tử chi tường sổ nhận, bất đắc kỳ môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi mỹ, bách quan chi phú, đắc kỳ môn giả hoặc quả hỹ). 

Vài ngày sau, chú của Thúc Tôn Vũ lại phỉ báng Khổng Tử, Tử Cống khuyên ông đừng làm như vậy, Ông nói: “Ông làm như vậy không ích gì đâu, Phu tử là không thể phỉ báng được. Hiền đức của người khác giống như đồi núi, có thể vượt qua được. Hiền đức của Phu tử giống như mặt trời và mặt trăng, không cách nào có thể vượt qua. Mặc dù một số người muốn đoạn tuyệt với ngày tháng, nhưng điều đó không gây tổn hại gì tới ngày tháng cả, điều đó chỉ cho thấy anh ta không tự biết lượng sức mình mà thôi”. Đoạn đối thoại này không những có thể biểu hiện sự tôn kính của Tử Cống với thầy, còn thể hiện nghệ thuật giao tiếp tuyệt vời của ông. Chỉ thông qua một vài từ đơn giản đã có thể miêu tả được hình tượng vĩ đại của Khổng Tử.

Tranh minh hoạ Khổng Tử và 4 học trò của mình (ảnh: Epochtimes.com).

Cách nói không đúng đắn của một số người khác cũng đều được Tử Cống góp ý. Trần Tử Cầm cũng là một học trò của Khổng Tử, nhưng luôn hoài nghi về thầy mình. Một lần, ông ta hỏi Tử Cống: “Học vấn của Phu tử là từ đâu nhỉ? Người chu du liệt quốc, tìm hiểu chính sự các nước, là thỉnh cầu người ta nói ra, hay người ta chủ động nói?” Tử Cống đáp: “Đạo nhân nghĩa của Văn Vương, Võ Vương lưu truyền trong thế gian, người có đức hạnh tài năng biết được nội hàm của nó, người thiếu đức hạnh chỉ biết được bề ngoài. Đạo nghĩa công lý không chỗ nào không có mặt, Phu tử ở đâu mà không thể học hỏi chứ. Cách người hỏi thăm thông tin cũng không giống như người bình thường. Người dựa vào những mỹ đức như ôn hòa, thiện lương, kính cẩn, giản dị, khiêm nhường để có được.” Trần Tử Cầm lại hỏi: “Ngươi có ý biểu hiện rất tôn kính Phu tử, phải chăng Người đức hạnh tài năng hơn ngươi sao?” Tử Cống đáp: “Một câu của người quân tử có thể biểu hiện tầm nhìn xa trông rộng, một câu cũng có thể biểu hiện sự không sáng suốt, nói lời không thể không thận trọng. Thầy của chúng ta là không gì có thể so sánh được, đức hạnh của người cao vời vợi, giống như bầu trời không thể có nấc thang cho người ta leo lên.”

Có người lại hỏi vì sao Khổng Tử lại tài giỏi như vậy, Tử Cống nói: “Khổng Tử là thánh nhân trên trời, là thánh nhân bẩm sinh.” Tử Cống luôn ghi nhớ những lời giáo huấn của Khổng Tử và lòng ôm chí lớn tề gia trị quốc, cứu giúp người nghèo khổ. Mỹ đức khiêm tốn hiếu thảo, duy hộ học thuyết và tư tưởng của thầy, và kiên định “đạo tế thiên hạ” (cứu giúp thiên hạ), lưu danh hậu thế. Thật vậy, phẩm giá tôn sư trọng đạo là một mỹ đức tốt đẹp truyền thống của văn hóa Trung Hoa, ân đức của thầy là cả đời không thể quên.

Thầy được tôn trọng, thì những đạo lý, kiến thức và kỹ năng, tài năng của thầy cũng mới được tôn trọng. Đạo đức tôn nghiêm, cao quý của thầy cũng giống như trong Lễ ký, Học ký viết: “Sư nghiêm nhiên hậu đạo tôn, đạo tôn nhiên hậu dân tri kính học”. (Thầy nghiêm thì Đạo được tôn kính; Đạo được tôn sùng, thì dân biết kính trọng sự học. Để có thể duy trì sự tôn nghiêm, thầy giáo không chỉ yêu cầu học trò phải tôn kính và lễ nghĩa trong ngôn hành cử chỉ mà còn yêu cầu sự tôn trọng ấy phải xuất phát từ nội tâm, học trò cần cù học tập, hiểu được đạo lý mà từ đó uốn nắn bản thân mình).

Kiên Định
Theo: minghui.org