Có bài thơ rằng: 

“Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”

(Bạch Đằng Giang Phú – Trương Hán Siêu) 

Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai còn lưu tâm đến những huy hoàng của quá khứ, những tinh hoa của cổ nhân hay những bài học sâu sắc từ ngàn xưa? 

Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quý độc giả một góc nhìn mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nhìn chuyện nay, tự đúc rút cho mình những trải nghiệm riêng. 

Khởi đầu là Kinh Dương Vương tu hành đắc Đạo, cho đến vua Rồng Long Quân kết hôn Tiên Nữ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng mà sinh thành dân Việt. Dường như lịch sử Việt Nam luôn thấm đẫm Thần tích, khiến cho sử Việt trở nên khác biệt và đẹp tuyệt vời trái ngược hẳn với ấn tượng cố hữu về một dòng thời gian toàn là chiến tranh chết chóc. 

Sau mùa Tết thưởng thức bánh Chưng bánh dày huyền thoại của Lang Liêu, giờ chúng ta hãy cùng ôn lại một số điển tích hấp dẫn nữa về ông, vị vua có vẻ được ông Trời và Thần Tiên ưu ái nhiều nhất trong lịch sử.

Vua Rồng Long Quân kết hôn Tiên Nữ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng mà sinh thành dân Việt. (Ảnh: thivien.net)

Thánh Nhân trị vì, thần tích triển hiện

Sau khi vâng mệnh Trời lên ngôi với cuộc thi làm bánh lịch sử, Lang Liêu quả thực đã chứng minh rằng ông chính là chân mệnh Thiên Tử trời chọn cho nước Việt. Vốn dĩ là một người tu Tiên, sống thuận Thiên Đạo nên Thời ông trị vì đất nước thanh bình phồn vinh, cả xã hội hài hòa với người dân lương thiện hiền lành.

Ngọc Phả Hùng Vương chép:

“Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống. Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi được kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ”.

Do kính phụng Thần linh, chăm lo giáo hóa dân chúng sống theo Thiên Đạo, nên Thiên Thượng đặc biệt chú ý đến nhà vua, và cũng cho phép Thần tích triển hiện trên vùng đất này 1 lần nữa:

“Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày Rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, ước nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa.

Lão ông nói: “Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông”.

Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời”.

Bảng trên bia mộ Hùng Chiêu Vương ngày nay. (Ảnh: soha.vn)

Quốc ấn và bảo kiếm đầu tiên của quốc gia do Thần ban cho 

Xưa có câu “Quân quyền Thần thụ” nghĩa là quyền lực của Vua là do Trời ban. Nên nếu không có sự xác nhận từ Trời thì vua sẽ không đủ tư cách cai trị quốc gia và quốc gia đó cũng không tồn tại được.

May mắn cho dân tộc ta có được sự dẫn dắt từ dòng dõi của Thần, các vị vua Hùng, đến thời Hùng Chiêu Vương, với sự trị vì sáng suốt và thành kính thờ Trời mà 1 lần nữa Trời giáng hạ điềm lành xác nhận quân quyền của nước Nam:

“Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng: “Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho được quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho”.

Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào. Thiên vương nói:

– Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên Thượng Đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo. Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.

Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuôi kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ “Thiên Linh ấn”, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ “Thiên Lĩnh nhẫn” (nhẫn cũng là kiếm)”.

Kiếm thần Thiên Vương ứng ban cho Chiêu Vương. (Ảnh minh họa: Pinterest)

Đắc Đạo thành Tiên, vĩnh sinh bất diệt

Hùng Chiêu Vương được Thần linh triển hiện cho thấy Thần tích nhiều lần, tự nghiệm thấy người phàm quá nhỏ bé và kiếp người quá ngắn ngủi nên càng dốc lòng tu hành và cầu đắc Đạo.

“Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu:

– Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.

Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống.

Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh.

Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh”.

Bồng lai tiên cảnh chợt hiện ra. (Ảnh: pinterest.co.uk)

Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng:

“Tây đại sơn nhân thượng”
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân,
Doãn cư thượng khẩu vượng.

Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp:

– Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.

Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết Hoàng Thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất.

Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt”.

Trong “Hi Cương xã thần tích” còn gọi là “Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thể thánh vương ngọc phả cổ truyền” cũng cho biết:

“Vua lập đàn ở núi Tam Ðảo, đến chùa Tây Thiên mở hội 7 ngày, 7 đêm để cho trai gái bốn phương dự hội vui. Lại đến chùa Phù Nghì lập vọng Tiên đàn cầu trời đất, mong được gặp Tiên. Trên đường trở về, gặp được nàng Ngọc Tiêu, con gái nuôi của vị Trưởng ông thôn Ðông Lộ rồi kết duyên, sinh ra Hùng Vĩ Vương, lập làm con trưởng”.

Chùa Tây Thiên, Tam Đảo. (Ảnh: duli.vn)

Theo thần tích ở đền Tam Ðảo, bà họ Lăng tên là Tiêu, còn gọi là Cẩm Giang, người thôn Ðông Lộ vốn do khí núi linh thiêng mà sinh ra không phải người thường thoắt ẩn, thoắt hiện thiêng liêng khắp mọi nơi. Bao đời nay, các triều đại phong kiến từ Ðinh, Lý, Trần, Lê đều sắc phong Người là: Tam Ðảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Tối Linh Ðại Vương, Thượng đẳng phúc thần, hàng năm cử các quan đại thần lên cúng tế. Người dân gọi bà là Quốc Mẫu Tây Thiên và trong hệ thống đạo Mẫu, bà cũng là một thánh nữ được thờ phụng

Lời kết:

Thần thoại hay Truyền thuyết đôi khi là những câu chuyện hoàn toàn có thật, chẳng qua sự vô tình của thời gian và sự truyền miệng thêu dệt đã khiến người đời sau không tin tưởng vào nó nữa, cho nó chỉ là chuyện huyền hoặc.. Vì lẽ con đường tu Đạo chân chính không còn rộng mở cho chúng sinh như thời thượng cổ – thời mà Nhân Thần đồng tại – nên người ta dần cho rằng những điều huyền diệu về Thần chỉ là chuyện cổ tích, càng làm cho Thần tích không thể triển hiện lần nữa nơi cõi đời này.

Và kết quả con người ngày càng tuyệt vọng trong vòng xoáy bất tận của thế giới công nghiệp hiện đại, mãi mãi không tìm thấy được niềm hạnh phúc thật sự. Thật may mắn thay cho những ai còn yêu thích sự kỳ diệu của thế giới cổ tích, mãi giữ cho tim mình một sự thuần khiết như trẻ thơ để có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của thế giới này – một thế giới đã từng huy hoàng vì đã từng được Thần tạo ra.

Tĩnh Thủy