Phải chăng một bài thơ đã thành lời sấm?
Tác giả: Dung Nãi Gia
Tô Đông Pha có tác phẩm “Ngư tiều nhàn thoại lục”, thông qua cuộc trò chuyện nhàn tản của một ngư ông và một tiều phu (hóa thân của Đông Pha), để bàn về thế sự và những điều tai nghe mắt thấy, giúp mở mang tầm mắt cho người đọc. Có vị khách đề nghị hai vị ngư tiều nên trò chuyện về những đạo lý nhỏ nhặt trong cuộc sống như củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà, hoặc đối ẩm dưới trăng thanh gió mát mà ngâm thơ đối đáp, chứ đừng lúc nào cũng đụng đến chuyện chính sự triều đình và những câu chuyện lịch sử, ấy là vượt quá phận sự của mình. Vậy thì, “Ngư tiều nhàn thoại” là những triết lý nhỏ của thế gian hay là những câu chuyện lớn của đời người? Hay chẳng là gì cả? Điều này xin để độc giả tự mình thể nghiệm.
Vào ngày nọ, ngư ông và tiều phu lại tiếp tục hồi tưởng về chuyện cũ của Đường Minh Hoàng (Đường Huyền Tông) năm xưa (nối tiếp kỳ trước: Đông Pha nhàn thoại: Mở đầu câu chuyện: Lời tiên tri của hòa thượng Vạn Hồi):
Vào cuối những năm Thiên Bảo, thời thịnh thế của Minh Hoàng đã kéo dài hơn bốn mươi năm, trong lòng ông sinh ra mệt mỏi, không muốn quản việc thiên hạ nữa. Ông thầm tính toán: Việc lớn của quốc gia cứ giao cho đại thần lo liệu, còn trẫm cứ ở hậu cung mà ung dung tự tại! Chẳng may, ông lại chọn trúng một nhân vật như Lý Lâm Phủ, kết quả là đẩy triều chính nhà Đường thẳng vào một hố đen lớn, nhất thời mưu mô quỷ quyệt nổi lên khắp nơi, còn lời trung lẽ phải thì lặng im. Vậy còn bản thân hoàng đế thì sao? Ngài ngày đêm vui chơi hưởng lạc, bận rộn không ngơi nghỉ.
Một đêm nọ, Minh Hoàng ngẫu hứng lên lầu Cần Chính (có thuyết nói là lầu Hoa Ngạc) ngắm trăng, cho gọi người hát hay đến lầu hát khúc “Thủy Điệu”. Giai điệu du dương uyển chuyển, bỗng có những câu từ chạm sâu vào trái tim ông:
Phú quý vinh hoa năng ki thì?
San xuyên mãn mục lệ triêm y,
Bất kiến đê kim phần thủy thượng,
Duy hữu niên niên thu nhạn phi
Dịch thơ
Phú quý vinh hoa được mấy khi?
Non sông trước mắt lệ hoen mi.
Nào thấy cá bơi sông Phần Thủy,
Chỉ có thu về cánh nhạn phi.
Minh Hoàng khi ấy tuổi đã cao, tâm tư dễ xúc cảnh sinh tình, vừa nghe khúc hát này đã cảm thấy bi thương. Khúc hát chưa dứt, ông đã đứng dậy hỏi: “Đây là tác phẩm của ai?”
Thị vệ bẩm báo: Là của Lý Kiệu (*Lý Kiệu, 645—714, đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, từng giữ chức Tể tướng).
Minh Hoàng nói: “Lý Kiệu thật là tài tử!” Vừa nói vừa không ngớt lời cảm khái. Một bậc thiên tử thái bình đường đường, lại bị một bài thơ làm cho lòng dạ rối bời, dường như trong cõi vô minh đã có điềm báo trước.
Đến cuối năm sau (năm Thiên Bảo thứ mười bốn, tức năm 755), loạn binh nổi lên ở Phạm Dương, An Lộc Sơn tiến đánh kinh thành. Minh Hoàng và hậu cung lên xe giá chạy về phía Tây đến đất Thục. Khi đi qua Quan Kiếm Môn, lên đỉnh Bạch Vệ, ông phóng tầm mắt nhìn non sông tráng lệ, phong cảnh vô ngần, nhưng trong lòng lại sầu muộn khôn nguôi. Bỗng ông nhớ lại những câu thơ đã làm mình cảm động khi ngắm trăng nghe hát trên lầu Cần Chính năm ngoái, liền cho người hát lại. Nghe câu “Phú quý vinh hoa được mấy khi? Non sông trước mắt lệ ướt y…” ông không khỏi cảm khái, và lại một lần nữa thốt lên câu nói ấy: “Lý Kiệu thật là tài tử!” Lúc này, Minh Hoàng bất giác lệ đã thấm ướt vạt áo, vịn vào Cao Lực Sĩ rồi bước xuống khỏi đỉnh Bạch Vệ.

Người tiều phu nói lên quan điểm của mình:
Bản thân cỏ cây, núi sông trong thiên hạ sẽ không tự tìm đến để lay động lòng người, mà sự xúc động trước cỏ cây, núi sông hoàn toàn là tác động tự phát tự cảm của lòng người. Việc đời cũng vậy, bản thân sự việc không chi phối tâm trạng con người, nhưng tâm trạng con người lại tự động mở toang cánh cửa, để cho sự việc chi phối, trói buộc mình.
Lý Kiệu sáng tác bài “Phần Âm hành” này vốn không phải để viết cho Minh Hoàng. Khi đó, ở tuổi 33, ông mượn cảnh thịnh thế của Hán Vũ Đế xưa để so sánh với hiện tại nhằm châm biếm thời sự, đâu có ngờ rằng mấy mươi năm sau lại khiến một Đường Minh Hoàng còn chưa ra đời phải rơi lệ lúc tuổi già? Nếu tính từ lúc bài “Phần Âm hành” được sáng tác, thì chuyện khiến Minh Hoàng rơi lệ là việc của 78 năm sau. Đây không phải là do bài thơ có sức mạnh thần thông, mà là do chính Minh Hoàng đã chìm đắm trong cái tình của mình không thể thoát ra được.
Trang Tử ngày xưa từng hỏi ngược lại rằng: “Là núi rừng ư, là sông ngòi ư, khiến ta vui mừng khôn xiết sao?” (“Trang Tử – Tri Bắc Du”: “Sơn lâm dữ? Cao nhưỡng dữ? Sử ngã hân hân nhiên nhi lạc dữ?”). Thực ra, cỏ cây trong núi rừng sông ngòi chỉ tự nhiên sinh trưởng tươi tốt, chứ không gửi gắm tình cảm vào sự tươi tốt của mình để làm cho con người vui vẻ! Là do con người tự mình nhìn thấy sự tươi tốt của núi rừng sông ngòi mà lòng sinh ra vui mừng, cảm thấy hạnh phúc. Cho nên, đây được gọi là một loại “niềm vui vô cớ”; cùng một lý lẽ, trên đời cũng có “nỗi buồn vô cớ”. Chính vì thế, người đời có thể niềm vui chưa dứt thì nỗi buồn đã đến, tiếng cười chưa tắt thì nước mắt đã tuôn rơi. (“Trang Tử – Tri Bắc Du”: “Lạc vị tất dã, ai hựu kế chi.”). Lời này quả không sai!
Lời người đời sau: Đạo ở nhân gian
Thế gian có “niềm vui vô cớ”, vậy tại sao lại có “nỗi buồn vô cớ”? Tô Đông Pha đã dùng phản ứng của Đường Minh Hoàng khi nghe bài thơ của Lý Kiệu “Phú quý vinh hoa được mấy khi? Non sông trước mắt lệ ướt y…” để giải đáp, quả là một mũi tên trúng đích. Phàm là mọi sự việc trên đời, mọi tình cảm chốn nhân gian, đều do “tâm” con người làm chủ! Trên đời có người muốn tu hành, một nguyên nhân quan trọng là sau khi đã trải qua những nỗi khổ vô thường của sinh, lão, bệnh, tử, của sinh ly tử biệt và của danh lợi tình, họ muốn làm chủ chính bản thân mình. Nhân thế nhiễu nhương, con người đối với cảm xúc thì “buồn vui kéo đến, ta chẳng thể ngăn, chúng ra đi, ta chẳng thể giữ” (“ai lạc chi lai, ngô bất năng ngự, kỳ khứ phất năng chỉ”), dù là buồn hay vui, chúng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, bản thân ta không thể chống cự, không thể làm chủ. Một “con người” như vậy, cuối cùng cũng chỉ có thể làm một trạm dừng chân cho vạn vật thế gian mà thôi!
Theo Epoch Times