Tác giả: Tiết Trì

Nguyên văn: Tử viết: 「Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ.」 (Luận Ngữ, thiên Vi Chính, chương 11)

Khổng Tử nói: “Ôn lại điều cũ mà biết được điều mới, có thể làm thầy được rồi.”

【Chú thích】

  • Ôn cố nhi tri tân (溫故而知新): Có hai cách hiểu chính: một là khi ôn tập kiến thức cũ, có được những thể hội và phát hiện mới; hai là ôn tập những điều đã học, đồng thời thường xuyên tìm hiểu những điều chưa học.

【Bàn luận】 Thế nào là nhân, thế nào là hiếu, thế nào là hiếu học v.v., sách 《Luận Ngữ》 đã bàn đến ở nhiều chỗ. Khổng Tử dạy tùy theo năng lực, nên cách nói ở mỗi nơi đều khác nhau. Nhưng khi bàn về việc “có thể làm thầy”, thì chỉ có duy nhất chương này, và lại nói một cách vô cùng ngắn gọn, súc tích, chỉ với năm chữ “ôn cố nhi tri tân”.

Vậy nên hiểu “ôn cố nhi tri tân” như thế nào?

Một cách nói cho rằng, “ôn cố” (ôn cũ) và “tri tân” (biết mới) là mối quan hệ song song. Tử Hạ nói: “Nhật tri kỳ sở vong, nguyệt vô vong kỳ sở năng, khả vị hiếu học dã dĩ hĩ.” (Hàng ngày biết thêm điều mình chưa biết, hàng tháng không quên điều mình đã biết, có thể gọi là hiếu học vậy.) (Luận Ngữ, thiên Tử Trương). Có người nói “ôn cố” chính là “nguyệt vô vong kỳ sở năng”, hàng tháng không quên những điều đã học; “tri tân” chính là “nhật tri kỳ sở vong”, hàng ngày biết thêm những điều mình trước đây chưa biết. Điều đã học mà không ôn lại, lâu ngày sẽ quên; điều chưa học mà không học, thì học vấn sẽ dừng lại ở đó. Một người có thể sống đến già, học đến già, hẳn là có thể làm thầy được. Cách hiểu này tương đối giản dị, mộc mạc, ai cũng có thể làm theo.

Tuy nhiên, Chu Hy lại có cách giải thích khác: “‘Ôn’ là tìm tòi, suy ngẫm. ‘Cố’ là những điều đã nghe trước đây. ‘Tân’ là những điều lĩnh hội được ngày nay. Ý nói việc học có thể thường xuyên thực hành những điều đã nghe, mà mỗi lần đều có thu hoạch mới, thì sở học đó mới thực sự ở trong ta, và sự ứng dụng của nó sẽ không bao giờ cạn kiệt, do đó có thể làm thầy cho người khác.” Sách 《Lễ Ký – Học Ký》 cũng nói: “Ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư.” (Học theo kiểu ghi nhớ và hỏi han đơn thuần thì không đủ để làm thầy người khác.) Cách nói của Chu Hy có lý lẽ riêng của nó. (Dĩ nhiên, cũng có người nói rằng cách giải thích của Chu Hy “ý tuy cao nhưng khó làm, e rằng không phải là ý gốc của kinh điển”.)

Người xưa cũng giảng: “Ân giám bất viễn, tại Hạ hậu chi thế” (Tấm gương của nhà Ân không xa, chính là ở đời vua cuối nhà Hạ) (Kinh Thi – Đại Nhã – Đãng), “Tiền sự bất vong, hậu sự chi sư” (Việc trước không quên, là thầy của việc sau) (Chiến Quốc Sách – Triệu Sách Nhất). Ghi nhớ bài học từ những thất bại đi trước, cũng có thể coi là một loại “ôn cố nhi tri tân”.

Trong 《Luận Ngữ》, Tăng Tử nói về ba điều tự xét mình mỗi ngày, một trong số đó là “Truyền bất tập hồ?” (Điều thầy truyền dạy đã luyện tập chưa?), đây cũng là ôn cũ. Ôn cũ mà có thể biết mới, có những phát hiện mới, suy một ra ba, chứ không chỉ đơn thuần là học vẹt, thì mới có thể làm thầy, mới không làm người khác hiểu lầm, và còn có thể khiến cho học vấn được kế thừa và phát huy qua các thế hệ. Ý tứ của Khổng Tử rất sâu xa.

Ở đây có một vấn đề, vì sao “ôn cũ” lại có thể “biết mới”? Từ góc độ kinh học mà nói, là vì trong “cũ” có “Đạo”. Cả đời Khổng Tử “chí tại Đạo”, nên “ôn cố” thực chất là “ôn Đạo”. Mạnh Tử trong sách 《Ly Lâu hạ》 có nói: “Quân tử thâm tạo chi dĩ đạo, dục kỳ tự đắc chi dã; tự đắc chi, tắc cư chi an; cư chi an, tắc tư chi thâm; tư chi thâm, tắc thủ chi tả hữu phùng kỳ nguyên; cố quân tử dục kỳ tự đắc chi dã.” (Người quân tử đi sâu vào đạo, là muốn tự mình lĩnh hội được nó; tự mình lĩnh hội được, thì sẽ ở trong đó mà an nhiên; ở trong đó mà an nhiên, thì tích lũy được sâu dày; tích lũy được sâu dày, thì khi dùng đến sẽ gặp được ngọn nguồn của nó; cho nên người quân tử muốn tự mình lĩnh hội được đạo.)

So sánh mà nói, Trương Cư Chính giải thích về “ôn cố nhi tri tân” là rõ ràng nhất: Nghĩa lý trong thiên hạ là vô cùng, mà những điều con người nghe thấy được lại có hạn. Nếu chỉ chuyên dựa vào ghi nhớ, hỏi han, thì những gì có được trong đầu óc có thể là bao nhiêu? Nếu có thể thường xuyên ôn tập những điều đã nghe trước đây, như Kinh Thi, Kinh Thư đã đọc, những bài giảng đã nghe, đều phải nghiền ngẫm nhiều lần, không để quên lãng, lại có thể từ đó suy ra những điều tương tự, mỗi lần đều có thu hoạch mới, thì ngay cả những điều chưa từng biết cũng sẽ dần dần hiểu ra. Như vậy sẽ thấy nghĩa lý ngày càng thông suốt, học vấn ngày càng đầy đủ. Khi có người đến hỏi, liền có thể ứng đáp mà không cạn kiệt. Khi có người nghi hoặc, liền có thể phân tích cho họ mà không thiếu sót. Như thế há chẳng phải có thể làm thầy cho người khác sao? Điều này cho thấy việc học của người quân tử, không lấy việc học thuộc lòng làm công phu, mà cốt ở chỗ có thể thấu rõ lý lẽ; không lấy việc nghe nhiều biết rộng làm uyên bác, mà cốt ở chỗ giỏi suy ngẫm trong tâm mình. Người học không thể không cố gắng.

Còn về việc “có thể làm thầy”, sau này Tuân Tử đã có những phát huy. Trong “Trí Sĩ thiên”, ông nói: “Sư thuật hữu tứ, nhi bác tập bất dữ yên” (Đạo làm thầy có bốn điều, mà việc học rộng không nằm trong đó). Bốn điều đó là gì? “Tôn nghiêm nhi đạn, khả dĩ vi sư; kỳ ngải nhi tín, khả dĩ vi sư; tụng thuyết nhi bất lăng bất phạm, khả dĩ vi sư; tri vi nhi luận, khả dĩ vi sư.” (Có sự tôn nghiêm khiến người khác kính sợ, có thể làm thầy; lớn tuổi mà được người khác tin phục, có thể làm thầy; tụng đọc giảng giải kinh điển mà không vượt quá, không sai phạm, có thể làm thầy; biết được đạo lý tinh vi của con người mà có thể luận giải, có thể làm thầy.)

“Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ”, mười chữ, nhưng để hiểu ra thì không chỉ cần đến ngàn vạn lời. Đây cũng là một trong những biểu hiện của tinh thần “học không biết chán” mà Khổng Tử đã nói.

Tài liệu tham khảo chính:

  • 《Luận Ngữ Chú Sớ》 (bản có dấu câu Thập Tam Kinh Chú Sớ, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
  • 《Tứ Thư Trực Giải》 (Trương Cư Chính, Nhà xuất bản Cửu Châu)
  • 《Luận Ngữ Tân Giải》 (Tiền Mục, Nhà xuất bản Tam Liên)
  • 《Luận Ngữ Dịch Chú》 (Dương Bá Tuấn, Nhà xuất bản Trung Hoa Thư Cục)
  • 《Luận Ngữ Kim Chú Kim Dịch》 (Mao Tử Thủy chú dịch, Nhà xuất bản Hữu nghị Trung Quốc)
  • 《Luận Ngữ Tam Bách Giảng》 (Phó Bội Vinh, Nhà xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
  • 《Luận Ngữ Dịch Chú》 (Kim Lương Niên, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
  • 《Luận Ngữ Bản Giải (bản hiệu đính)》 (Tôn Khâm Thiện, Nhà xuất bản Tam Liên)

Theo Epoch Times