Đạo Trời đền đáp người cần cù, người quân tử không lười nhác

Tác giả: Lý Sơ Đạt

“Trời vận hành mạnh mẽ, người quân tử theo đó mà không ngừng tự cường” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức). “Thiên đạo thù cần” (Trời đền đáp người cần cù) là một tín điều bất biến của người Trung Hoa. Sự cần mẫn của người quân tử đến từ sự khai thị của đạo trời, sự kế thừa của lịch sử và văn hóa, và cũng là một dạng tu dưỡng của bản thân.

Người xưa có điển tích “văn kê khởi vũ” (nghe gà gáy liền múa kiếm), xuất phát từ “Tấn thư – Tổ Địch truyện”. Danh tướng Tổ Địch thời Đông Tấn lúc trẻ rất có hoài bão, ông và người bạn thân Lưu Côn tình cảm sâu đậm, thường ngủ chung giường. Nửa đêm nghe tiếng gà gáy, Tổ Địch liền dùng chân đá Lưu Côn dậy và nói: “Đây không phải là âm thanh tồi tệ đâu!”, rồi cả hai cùng thức dậy múa kiếm. Hai người khích lệ nhau lập chí, quyết cùng nhau khôi phục cơ đồ nhà Tấn.

Đại thi nhân, danh tướng chống quân Kim thời Tống là Tân Khí Tật cũng có một câu chuyện tương tự. Tương truyền, khi về già ở Đới Hồ, Giang Tây, ban đêm nghe tiếng gà gáy, ông liền khoác áo ngồi dậy, đọc sách luyện võ, để không quên chí lớn khôi phục Trung Nguyên. Tân Khí Tật có bài từ “Phá trận tử – Vị Trần Đồng Phủ phú tráng từ dĩ ký chi”, trong đó có câu “Tuý lý thiêu đăng khán kiếm, mộng hồi xuy giác liên doanh” (Say khêu đèn ngắm kiếm, mộng về tù và vang khắp doanh trại), chính là bức chân dung chân thực về ý chí báo quốc của ông. Ông còn viết: “Ngã tối liên quân trung tiêu vũ, đạo nam nhi đáo tử tâm như thiết” (Ta thương nhất là chàng múa kiếm giữa đêm, nói lên rằng đấng nam nhi đến chết lòng vẫn cứng như sắt), để bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối với khí phách hào hùng của việc nghe gà gáy múa kiếm, và quyết tâm chống Kim phạt Bắc của đấng trượng phu đến chết vẫn không thay đổi.

“Mười năm đèn sách khổ hạnh”, dù là học văn hay luyện võ, con người Trung Hoa đều nổi tiếng với đức tính cần cù. Cái gọi là “Thiên đạo thù cần” thường xuất hiện trong các bài thơ, văn, bia ký, hoành phi của các văn nhân mặc khách từ sau thời Đường, Tống, và cũng xuất hiện trên các cửa chính của từ đường, thư viện.

Đến thời hiện đại, võ sư Lý Tiểu Long có một câu danh ngôn: “Tôi không sợ đối thủ đã luyện một vạn cú đá, chỉ sợ đối thủ đã luyện một cú đá một vạn lần.”

Võ sư mỗi ngày đều phải luyện võ, thư pháp gia, họa gia mỗi ngày đều phải vung bút múa mực, nhà văn mỗi ngày đều phải miệt mài viết lách, vũ công mỗi ngày đều phải luyện các động tác cơ bản… Đây là trạng thái bình thường của sự cần mẫn, và chỉ có siêng năng học hỏi, khổ luyện mới có thể duy trì được trạng thái tốt và không ngừng thăng hoa. Đặc biệt là khi còn trẻ, đó là thời gian vàng để đọc sách, xây dựng nền tảng và rèn luyện kỹ năng, tuyệt đối không thể lãng phí thời gian, chìm đắm trong vui chơi.

Trong “Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Thánh Huấn”, có ghi lại danh ngôn của vua Khang Hy: “Phàm là người, phải chịu được lao khổ mới có thể thành công, không chịu được lao khổ thì đến đâu cũng vô dụng. Không chỉ võ tướng như vậy, mà văn thần nếu không chịu lao khổ thì học vấn làm sao thành tựu?” Ý nói rằng, có chịu khổ chịu khó mới có thể thành công, không chỉ võ tướng mà văn thần cũng vậy, nếu không thì làm sao có thể thành tựu học vấn? Dưới đây là ba câu chuyện lịch sử về sự cần cù, không ham an nhàn.

Khang Hy Dạy Con, Hoàng Tử Chăm Chỉ Khổ Học

Câu chuyện vua Khang Hy dạy con đọc sách khiến người ta phải thán phục. Khang Hy cho xây “Vô Dật Trai” (Phòng học Không An Nhàn) trong Sướng Xuân Viên làm nơi học của thái tử. Mỗi ngày vào giờ Mão (5-7 giờ sáng), thái tử ngồi vào bàn tụng các chương trong “Lễ Ký”. Đến giờ Thìn (7-9 giờ sáng), sau khi thiết triều sớm và thỉnh an Hoàng Thái hậu, Khang Hy đến Vô Dật Trai để kiểm tra việc học thuộc của thái tử. Vào giờ Tỵ (9-11 giờ sáng), thái tử tập trung ngồi ngay ngắn, cúi xuống bàn viết chữ, viết hàng trăm chữ Hán và một chương chữ Mãn. Vào những ngày đầu hè nắng như thiêu đốt, các thầy giáo vì dậy quá sớm, đứng quá lâu mà mệt mỏi, đứng nghiêng người ngủ gật.

Giờ Ngọ (11 giờ sáng – 1 giờ chiều) là giờ dùng bữa trưa. Sau bữa ăn, thái tử lại tiếp tục ngồi nghiêm chỉnh, đọc “Lễ Ký”. Giờ Mùi (1-3 giờ chiều) là giờ ăn điểm tâm. Sau khi ăn xong, thái tử bước ra ngoài, giương cung bắn tên. Đây vừa là một tiết thể dục, vừa là một tiết quân sự, nhằm giáo dục hoàng tử phải sùng văn thượng võ.

Giờ Thân (3-5 giờ chiều), các hoàng tử tập trung tại Vô Dật Trai để đọc sách. Vua Khang Hy nói: “Trong cung của trẫm không có đứa con nào không đọc sách”, rồi cho thầy giáo tùy ý lật sách kinh điển ra đề, lần lượt kiểm tra việc học thuộc và giảng giải của các hoàng tử. Giờ Dậu (5-7 giờ chiều), Khang Hy lệnh cho các hoàng tử lần lượt bắn tên, sau đó hoàng đế đích thân bắn, và phát nào cũng trúng.

Theo sách sử nhà Thanh, việc học của hoàng thái tử không kể nóng lạnh, không gián đoạn một ngày nào. Vua Khang Hy đã dốc hết tâm huyết để dạy con. Câu “sách phải đọc thuộc đủ một trăm hai mươi lần” cũng là kinh nghiệm của chính ông.

“Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Đình Huấn Cách Ngôn” ghi lại rằng, Khang Hy bắt đầu biết đọc sách từ năm năm tuổi, tám tuổi lên ngôi hoàng đế. Khi đó, ông đọc “Đại Học”, “Trung Dung”, gặp những chỗ chú giải khó hiểu thì hỏi người bên cạnh, nhất định phải hiểu được đại ý mới vui. Mỗi ngày đọc sách, ông đều yêu cầu mình phải thuộc từng chữ, chưa bao giờ tự lừa dối mình trong học tập.

“Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Thánh Huấn” còn ghi: Khang Hy nói, “Người đời ai cũng thích an nhàn mà ghét lao động, nhưng lòng trẫm lại cho rằng người thường xuyên lao động mới biết thế nào là an nhàn. Nếu chỉ an phận trong sự nhàn hạ thì không những không biết được sự an nhàn, mà khi gặp việc lao khổ sẽ không chịu nổi. Cho nên, ‘Kinh Dịch’ nói: ‘Trời vận hành mạnh mẽ, người quân tử theo đó mà không ngừng tự cường’.”

Ở đây, ông bàn về mối quan hệ giữa ham an nhàn và ghét lao động. Khang Hy cho rằng, chỉ người siêng năng vất vả mới thực sự cảm nhận được thế nào là an nhàn. Nếu chỉ tham lam sự an nhàn, không những không có được sự an nhàn thực sự, mà một khi gặp phải việc vất vả, sẽ không thể chịu đựng được.

Quân Tử Vô Dật, Tự Cường Bất Tức

“Quốc Ngữ – Lỗ Ngữ” cũng ghi lại chuyện Kính Khương bàn về lao động và an nhàn. Kính Khương là người nước Lỗ thời Xuân Thu, phu nhân của đại phu Công Phụ Mục Bá, và là mẹ của Công Phụ Văn Bá. Bà là người thông tỏ lễ nghĩa, đức hạnh sáng ngời, từng dùng pháp lý để dạy con khi con phạm lỗi. Khổng Tử cho rằng bà là người hiền đức, liệt vào hàng từ mẫu. “Kính Khương Luận Lao Dật” là một tác phẩm tiêu biểu cho gia huấn thời Xuân Thu – Chiến Quốc.

Một hôm, Công Phụ Văn Bá sau khi tan triều liền đến thăm mẹ, thấy mẹ đang se sợi gai. Văn Bá nói: “Gia đình họ Công Phụ ta thuộc hàng khanh đại phu, mà mẹ con vẫn phải tự tay dệt vải. Nếu như họ Quý Tôn (khanh đại phu nước Lỗ) trông thấy, e rằng sẽ cho rằng con là người không thể phụng sự chúa thượng chu đáo, mới để mẹ phải lao động vất vả. Như vậy sẽ làm phật lòng Quý Tôn!”

Mẹ ông thở dài một tiếng rồi nói: “Nước Lỗ sắp diệt vong rồi chăng? Để những người như con làm quan mà lại không biết đạo làm quan. Được, ta sẽ giảng cho con nghe.” Thế rồi, Kính Khương đã giảng giải một phen về đạo lý “quân tử lao tâm, tiểu nhân lao lực”.

Bà nói rằng, các bậc thánh vương thời xưa khi sắp đặt nơi ở cho dân chúng, thường chọn những vùng đất tương đối cằn cỗi để họ định cư, khiến họ phải lao động và phát huy tài năng của mình, nhờ đó mà quân chủ có thể cai trị thiên hạ lâu dài. Dân chúng cần cù thì mới suy nghĩ, suy nghĩ mới sinh ra thiện hạnh; nếu an nhàn lười biếng thì sẽ buông thả hưởng lạc, quên đi hành vi lương thiện, từ đó mà sinh ra ác niệm.

Vì vậy, “Thiên tử có lịch trình, trăm quan có chức trách, sĩ thứ cần cù học tập lao động”. Thiên tử sáng sớm thức dậy, lúc mặt trời mọc cử hành triều hội, cùng tam công cửu khanh xem xét tình hình đức hóa và cai trị đất đai. Đến giữa trưa, thiên tử khảo sát chính vụ, xem xét tình hình chính sự của trăm quan, có tể tướng, đại tư mã, đại tướng quân… phụ tá sắp xếp trật tự công việc của dân chúng. Chiều tối, thiên tử cùng thái sử (sử quan) đối chiếu ghi chép, sửa chữa những sai sót trong các việc tế trời, hình phạt… Khi mặt trời lặn, thiên tử kiểm tra công việc trong cung, đảm bảo lễ vật tế tự ở giao miếu được tươm tất sạch sẽ, sau đó mới nghỉ ngơi.

Chư hầu khi triều kiến thì thực thi chính lệnh của thiên tử, ban ngày kiểm tra hoạt động của các chức quan trong nước mình, chiều tối xem lại pháp điển hình phạt, ban đêm giám sát công việc của thợ thuyền, tránh lơ là và buông thả, sau đó mới nghỉ ngơi. Khanh đại phu buổi sáng kiểm tra công việc của mình, ban ngày bàn bạc chính sự thường nhật, chiều tối sắp xếp sản nghiệp, ban đêm lo liệu việc nhà, sau đó mới nghỉ ngơi.

Sĩ tử buổi sáng tiếp thu học vấn, ban ngày thông hiểu kiến thức, chiều tối ôn tập, ban đêm tự kiểm điểm lỗi lầm của mình, không còn điều gì hối tiếc mới nghỉ ngơi. Từ thường dân trở xuống, ban ngày lao động đến đêm mới nghỉ, không có một ngày biếng nhác.

Hoàng hậu tự tay dệt vải lụa đen, phu nhân của công hầu thì thêu thêm dây lụa trang trí. Vợ của các quan từ khanh đại phu đến sĩ thứ, đều dựa vào thân phận của chồng mà may y phục. Tế xã vào mùa xuân thì phân công nhiệm vụ, tế thu thì báo cáo công trạng; nam nữ đều phải có thành tựu, có lỗi thì bị phạt, đó là chế độ của người xưa. Người quân tử lao động bằng trí óc, kẻ tiểu nhân lao động bằng thể lực, đó là lời dạy của tiên vương. Từ trên xuống dưới, ai dám buông thả ý chí mà không hết sức mình?

Kính Khương dạy con rằng: “Nay ta là một quả phụ, còn con lại ở địa vị thấp, sớm tối lo việc chính sự, còn sợ quên mất cơ nghiệp mà tổ tiên đã gây dựng, đâu dám biếng nhác lười biếng? Ta mong mình sớm tối gắng sức tu thân, thường tự nhủ: ‘Nhất định không được làm hoang phế cơ nghiệp của tổ tiên.’ Mà con bây giờ lại nói: ‘Tại sao không tìm lấy sự an nhàn?’ Con mang suy nghĩ như vậy để gánh vác mệnh lệnh của vua, đảm nhiệm chức quan, ta thực sự lo rằng nhà Mục Bá sẽ vì thế mà đoạn tuyệt hương khói!”

Vua Cần Chính Yêu Dân, Tạo Phúc Cho Dân

Từ cuối thời nhà Thương đầu nhà Chu, Chu Công đã viết thiên “Vô Dật”. “Thượng Thư – Vô Dật” ghi rằng, Chu Công nói: Bậc quân vương tại vị, tuyệt đối không được an nhàn hưởng lạc. Trước tiên phải hiểu nỗi vất vả của việc cày cấy, sau đó ở trong cảnh an vui, thì sẽ biết được nỗi khổ của dân chúng. Hãy xem những người dân kia, cha mẹ vất vả cày cấy, con cái lại không biết nỗi nhọc nhằn của việc đồng áng, chỉ sống an nhàn, không cung kính. Lâu dần, chúng sẽ khinh miệt cha mẹ, nói rằng “người già không có kiến thức”.

Ông lấy ví dụ rằng, các vua nhà Ân như Trung Tông, đến Cao Tông, đến Tổ Giáp, đều lấy mệnh trời làm chuẩn tắc, cai trị dân chúng, kính cẩn lo sợ, không dám hoang phế, an nhàn. Họ tại vị lần lượt là bảy mươi lăm năm, năm mươi chín năm và ba mươi ba năm. Từ sau đó, các vua nhà Ân khi sinh ra đã sống trong cảnh an nhàn, không biết sự vất vả của việc trồng trọt thu hoạch, không biết nỗi khổ của dân chúng, chỉ biết chìm đắm trong hưởng lạc. Từ đó về sau, những hậu duệ này cũng ít có ai tại vị được lâu dài.

Ông khuyên răn các vị vua kế vị sau này, không được đắm chìm trong an nhàn, vui chơi và săn bắn, không được chỉ bắt dân chúng nộp thuế để mình hưởng lạc. Từ ba vị minh quân nhà Ân đến Chu Văn Vương, khi nghe dân chúng có lời oán thán, họ lại càng kính cẩn hơn trong hành vi của mình; nếu quả thực có lỗi, họ sẽ nói: “Đây là lỗi của ta.” Dù bị chỉ trích, họ cũng không ôm lòng oán hận. Nếu nghe theo lời đồn mà không phân biệt, sẽ dẫn đến việc lạm phạt, lạm sát người vô tội. Khi đó, oán hận của dân chúng sẽ hội tụ lại, tập trung vào người quân vương.

Quân vương cần chính yêu dân, quân tử tự cường bất tức. Từ đó có thể thấy, cần lao quả thực là mỹ đức của dân tộc Trung Hoa, từ thiên tử đến dân chúng, từ xưa đến nay, đều là như vậy.

Theo Epoch Times