Trong sử sách, có rất ít tư liệu về những năm đầu của thần y Hoa Đà. Các sử gia sau một vài từ giới thiệu sơ lược về thân thế, liền tập trung vào mô tả y thuật thần y tuyệt kỹ của ông. Do đó, trên vũ đài lịch sử, y thuật của Hoa Đà trở nên đầy sắc thái huyền bí, phát hào quang vạn trượng, trở thành một thần tượng không thể bắt kịp. Khi ông ly thế, vô số người, vì thất lạc một thần y tuyệt kỹ mà buồn bã khôn nguôi.

Tuy nhiên, mọi người sở dĩ cảm thấy buồn là vì Hoa Đà được định vị là một thần y, vì sự thất truyền y kỹ của ông mà thấy nuối tiếc. Nhưng nếu có thể thay đổi quan niệm đó, từ một góc độ khác mà nhìn nhận Hoa Đà, quý vị có thể mở lòng và cảm thấy nhẹ nhõm hơn.

Hoa Đà thích tầm Tiên phỏng Đạo hơn đạt được danh vị thế gian

Hoa Đà và Tào Tháo là đồng hương, người huyện Tiếu, nước Phái. Ông tính tình điềm đạm, thông mẫn hiếu học, tuy thông thuộc kinh điển, nhưng lại thích học phương thuật trị bệnh và tu luyện.

Có một câu chuyện thú vị được ghi lại trong “Trung Tàng Kinh”, miêu tả sự tích Hoa Đà đắc sách tiên trong sơn động.

Một ngày nọ, sau khi uống rượu, Hoa Đà đi dạo trên núi như thường lệ, ông hơi say, bèn ngồi nghỉ trước động cổ tại núi Công Nghi. Lúc này, ông đột nhiên nghe thấy có người đang đàm luận về phương pháp trị bệnh. Hoa Đà cảm thấy rất kỳ quái, khe khẽ tiến lại gần cửa động để nghe trộm.

Một lúc sau, ông nghe thấy một người đàn ông nói: “Hoa Đà ở gần đây, chúng ta có thể phó thác phương thuật trị bệnh này cho anh ta.” Nhưng một người khác cố ý nói: “Hoa Đà, người này tính tình tham lam, không thương xót sinh linh, làm sao có thể giao cấp cho anh ta?”

Hoa Đà nghe vậy thì giật mình, toát mồ hôi lạnh, lập tức nhảy xuống động để biện giải cho mình, chỉ thấy hai lão nhân đang ngồi ngay ngắn trong đó. Họ mặc y phục làm từ vỏ cây, đầu đội mũ rơm, đang mỉm cười nhìn mình.

Hoa Đà vội vàng tiến lên, cung kính cúi đầu bái chào và nói: “Vừa rồi ta nghe hai vị hiền giả đàm luận về phương thuật liệu bệnh, ta thâm cảm hứng thú, nghe đi nghe lại quên cả về nhà. Hơn nữa, ta luôn thích học tập đạo pháp có thể tế trợ bách tính, nhưng mãi không tìm ra con đường hiệu quả, tâm lý luôn cảm thấy đáng tiếc. Hy vọng hai quý tiên sinh có thể minh sát thành ý trong nội tâm ta, thỉnh vì ta mà khai mở trí huệ, ta nhất định chung thân không cô phụ ân tình của hai quý tiên sinh.”

Lúc này, lão nhân ngồi ở phía trên mới khai khẩu, nói: “Chúng ta sẽ không hối tiếc truyền thụ cho ngươi đạo thuật, nhưng e rằng sau này lại lụy đến ngươi! Nếu khi ngươi cứu người, có thể không phân biệt người giàu nghèo sang hèn, không thu kim tiền hối dụ, không sợ lao khổ, có thể thương xót kẻ già yếu, tương lai mới có thể miễn trừ họa sự.”

Hoa Đà vội vàng bái tạ, nói: “Ta nhất định ghi nhớ lời huấn thị của hai quý tiên sinh, một câu cũng không dám quên, mãi tuân theo chỉ thị mà hành.”

Hai vị lão nhân sau đó mỉm cười chỉ vào phía đông của động, “Trên giường đá có một hộp sách, ngươi tự mình nhặt lấy, mau rời khỏi nơi đây, nhất quyết không thể cho người thường xem, cần bảo trì thủ giữ bí mật.” 

Hoa Đà tiến nhanh tới cầm quyển sách, vừa quay đầu lại, thì hai lão nhân đã biến mất tung ảnh. Hoa Đà vội vàng rời khỏi sơn động, vừa bước khỏi cửa động, đột nhiên một đám mây đen ập đến, cuồng phong sậu vũ nổi lên, thạch động bị tiêu hủy, sụp đổ trong phút chốc.

Nguyên lai, Hoa Đà tìm đến thâm động là vì cầu Đạo. Trong sơn động, ông vừa khớp gặp được Tiên nhân tặng sách, sau đó, ngay cả phái tướng Trần Khuê và thái ý Hoàng Uyển thôi tiến ông ra làm quan, ông đều khước từ không muốn nhận.

Kỳ duyên trong núi

Kỳ duyên trong núi của Hoa Đà có thể không chỉ một lần. Từ một số sử liệu rời rạc, ngoài việc Hoa Đà được truyền thừa y thuật của Tiên gia từ trong núi, còn có một bộ khí công chỉ dẫn con đường tu mệnh dưỡng sinh và thảo dược phục thực dưỡng sinh diên thọ.

Đồ dưỡng sinh Hoa Đà dùng là một loại thực vật được gọi là thanh niêm (hiện tại gọi là hoàng chi). Một nhóm bạn của ông trên núi đã từng nhìn thấy các Tiên nhân trong núi dùng, và kể chuyện này với Hoa Đà. Sau khi Hoa Đà dùng thử, cảm thấy hiệu quả rất tốt, liền biến nó thành bí pháp dưỡng sinh của ông.

Hoa Đà có hai vị đệ tử: Ngô Phổ và Phàn A. Hoa Đà đã truyền lại phương pháp dưỡng sinh bằng thanh niêm cho Phàn A. Phàn A sống đến trăm tuổi, râu tóc vẫn đen mượt. Mọi người cảm thấy rất kỳ quái, nhiều lần gặng hỏi Phàn A về công thức bí mật. Có lần Phàn A say rượu, trong lúc say đã nói ra công thức bí mật này, sau khi mọi người dùng theo, quả nhiên hiệu quả rất tốt.

Rất nhiều y thuật của Hoa Đà đến nay đã bị thất truyền. (fotolia)

Hoa Đà đã dạy cho một đệ tử khác là Ngô Phổ một bộ “Ngũ cầm hí” để dưỡng sinh. Ngũ cầm hí là một bộ thủ pháp được đạo dẫn bởi các vị tiên thời cổ, chủ yếu mô phỏng tư thái của năm loài động vật, chẳng hạn như hổ, hươu, nai, gấu, vượn và chim, có thể trừ bệnh tật, tăng cường lực của chân, đạo dẫn khí mạch thông suốt. Ngô Phổ đã làm theo, và ở tuổi 90, ông vẫn còn mắt tinh tai thính, hàm răng nguyên vẹn.

Tu luyện có thành tựu

Tóm lại, Hoa Đà vốn là một người tu luyện có chí hướng cầu Đạo, nhân duyên vừa khớp lại nhận được sách tiên dạy y đạo, từ đó ông dốc sức nghiên cứu, nội dung trong sách tiên vừa đặc biệt cổ quái, lại vừa thâm sâu thần hiệu, vì vậy Hoa Đà dốc toàn tâm nghiên cứu không trễ nải. Ngoài đó ra, Hoa Đà ngẫu nhiên biết được nấm linh chi, dùng nó trong nhiều năm, cũng học được một bộ thuật đạo dẫn dưỡng sinh diên mệnh (kéo dài thọ), nên từ đó ông đã tự dấn thân vào con đường tu Đạo và hành nghề y.

Việc tu luyện của Hoa Đà xác thực đã có thành quả, trong sử truyền nói ông “Hiểu dưỡng tính chi thuật, niên thả bách tuế nhi do hữu tráng dung, thì nhân dĩ vi tiên”, ý tứ là, Hoa Đà thông hiểu pháp tu đạo dưỡng sinh, do đó năm ông gần trăm tuổi, trông vẫn rất tráng niên, người đương thời đều nhìn nhận ông là thần tiên. 

Hoa Đà giỏi phương dược, châm cứu, bậc thầy về phẫu thuật

Tiểu thuyết “Tam quốc chí” đặc biệt ái mộ y thuật cao diệu của Hoa Đà, ở đầu chương có miêu tả Hoa Đà “giỏi kê đơn thuốc”, nhưng bất quá chỉ kê một số đơn thuốc, khi phối dược chỉ cần nghĩ trong tâm, không dùng cân. Khi châm cứu cho người, châm kim vào huyệt vị cũng bất quá một vài chỗ, tức khắc có hiệu quả.

Kỹ thuật châm cứu của Hoa Đà cao siêu thần diệu. Có một người sau khi sinh bệnh, tàn phế cả hai chân, không đi lại được, ngồi trên kiệu tìm đến Hoa Đà để chữa bệnh. Hoa Đà sau khi chẩn thị, yêu cầu ông ta cởi y phục của mình, sau đó đánh dấu hơn chục ký hiệu phía lưng bệnh nhân, mỗi cái, theo hướng dọc và ngang, cách nhau một hoặc năm thốn không bằng nhau.

Hoa Đà nói với bệnh nhân: “Tôi sẽ đốt mười thanh ngải cứu lên từng chỗ đã đánh dấu, đợi đến khi vết sẹo lành, ông có thể đi lại được”. Sau này mọi người tra khán lưng của bệnh nhân kia, phát hiện các vị trí trị ngải phân bố đều hai bên cột sống, đối xứng cách nhau 1 thốn, trên dưới thẳng đều nhau, tinh chuẩn như kéo một sợi dây.

Hoa Đà cũng là một bậc thầy về phẫu thuật, cách đây khoảng 1.000 đến 700 năm, ông đã biết vận dụng thuốc gây mê “Ma phí tán”, thành công thi hành thủ thuật phẫu thuật.

Thủ thuật phẫu thuật chủ yếu nhằm vào các bệnh uất kết trong cơ thể mà không thể chữa khỏi bằng châm cứu và dược liệu. Đầu tiên Hoa Đà cho uống bột “Ma phí tán” với rượu, sau khi bệnh nhân bất tỉnh và được gây mê hoàn toàn, ông mới mổ bụng hoặc mổ lưng bệnh nhân để hút hoặc cắt bỏ uế vật tích tụ trong cơ thể. Nếu là bệnh đường tiêu hóa, cần mổ ruột, loại bỏ ác uế, rửa sạch sát trùng rồi khâu lại, rồi mới bôi thần cao, chỉ cần 4, 5 ngày là miệng vết thương liền lại, nội trong một tháng có thể hoàn toàn bình phục.

Sát sắc chẩn mạch, minh đoán hư thực

Có rất nhiều y án được ghi lại trong sử truyền, mô tả y thuật kỳ tài của Hoa Đà.

Trước hết, Hoa Đà tự nhiên thập phần thành thạo các phương pháp “nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch” trong Trung y cổ truyền.

Lúc đó Nghiêm Hân và một số người khác từ huyện Diêm Độc đang đợi Hoa Đà đến, ngay khi Hoa Đà đến, ông ngẩng đầu nhìn Nghiêm Hân và hỏi: “Thân thể của bác có khỏe không?” Nghiêm Hân nói, “Như thường lệ, không có gì khó chịu.” Hoa Đà nói, “Sắc mặt của bác trông có vẻ sắp có bệnh cấp tính, không nên uống rượu.” Nghiêm Hân ngồi một chút liền rời đi, mới đi được vài dặm, Nghiêm Hân choáng váng ngã xe, mọi người đỡ ông dậy, khiêng ông về nhà, không quá nửa đêm thì ông mất.

Đối với những bệnh có triệu chứng giống nhau, Hoa Đà có thể minh xác phân biệt được nguyên nhân hư thực, và kê đơn riêng.

Hai quan phủ Nghê Tầm và Lý Diên sống cùng một nơi, cả hai đều bị triệu chứng đau đầu và sốt. Hoa Đà giải thích: “Nghê Tầm cần uống thuốc tháo dạ, còn Lý Diên thì cần một đơn thuốc để khiến ông ấy đổ mồ hôi.” Mọi người thắc mắc tại sao cùng một triệu chứng lại có thể kê những đơn thuốc khác nhau. Hoa Đà nói, “Bệnh của Nghê Tầm là do tà khí ngoại xâm gây ra, còn triệu chứng bệnh của Lý Diên là do thể nội mà sinh, do đó phương pháp trị liệu đối ứng cũng bất đồng.” Hai người uống thuốc theo đơn của Hoa Đà xong, quả nhiên sáng hôm sau đã có thể đứng dậy khỏi giường.

Một lần, Hoa Đà chẩn thị mạch cho phu nhân Cam Lăng Tương. Phu nhân đã mang thai được sáu tháng nhưng vẫn đau bụng bất an, Hoa Đà khám cho bà và nói: “Thai nhi đã chết rồi.” rồi cho người dùng tay ấn vào tử cung, thực sự có thể sờ thấy thân thể của đứa trẻ. Sau đó Hoa Đà dùng thang dược bài xuất thai đã chết lưu, bệnh của phu nhân liền khỏi.

Đốc bưu Từ Nghị đổ bệnh, Hoa Đà đến chẩn trị. Từ Nghị nói với Hoa Đà: “Hôm qua, sau khi quan ngự y Lưu Tô giúp tôi châm cứu vào bộ vị, tôi liên tục ho và cảm thấy rất khó chịu ngay cả khi nằm xuống.” Hoa Đà nói, “Kim của ông ấy không châm được đến dạ dày, mà là vô tình châm sai vào gan, cảm giác muốn ăn của ngài sẽ càng ngày càng kém, sau năm ngày sẽ không cách nào cứu.” Sự tình phát sinh sau đó quả nhiên như những gì Hoa Đà nói.

Tuy nhiên, mọi người sở dĩ cảm thấy buồn là vì Hoa Đà được định vị là một thần y, vì sự thất truyền y kỹ của ông mà thấy nuối tiếc. Nhưng nếu có thể thay đổi quan niệm đó, từ một góc độ khác mà nhìn nhận Hoa Đà, quý vị có thể mở lòng và cảm thấy nhẹ nhõm hơn.

Hoa Đà có thể thấu thị nhân thể, bài xuất trùng vật khỏi thể nội

Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ hơn, bạn sẽ phát hiện phương pháp trị bệnh của Hoa Đà được miêu tả trong sử truyền dường như vượt rất xa cách “nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch” của các thế hệ Trung y sau này.

Một ngày nọ, Hoa Đà đang đánh xe trên đường thì nhìn thấy bên đường một người yết hầu bị tắc, muốn ăn nhưng nuốt không trôi, người nhà anh ta đang nghĩ đưa anh ta đi khám bệnh bằng xe ngựa. Hoa Đà nghe thấy những âm thanh rên rỉ thống khổ đau đớn của bệnh nhân, không đành lòng, liền dừng xe vào khám bệnh, nói với những người quanh anh ta: “Những người bán bánh ven đường bán dấm ngâm tỏi, mua ba thăng về uống, sẽ khỏi bệnh.” Gia nhân làm như lời Hoa Đà nói, bệnh nhân lập tức nôn ra một con trùng, và bệnh cũng liền khỏi.

Hoa Đà bằng công năng thấu thị, đã biết có trùng trong dạ dày của bệnh nhân.

Có một y án kỳ dị khác cũng liên quan đến trùng trong bụng bệnh nhân.

Thái thú Quảng Lăng Trần Đăng bị ốm, thường xuyên cảm thấy phiền muộn trong ngực, sắc mặt đỏ bừng, không ăn được gì. Hoa Đà bắt mạch cho ông ta và nói: “Trong bụng ngài có mấy thăng trùng, đã lớn thành khối u, là do ăn đồ tanh chưa nấu chín.” Sau đó, lập tức sắc hai thăng thang dược, đầu tiên cho bệnh nhân uống một thăng, phần còn lại uống sau một thời gian. Vừa uống xong, từ trong miệng bệnh nhân nôn ra hơn ba thăng trùng đỏ, thân thể vẫn còn yếu ớt, nửa thân dưới như thể miếng thịt cá sống, sau đó thì khỏi bệnh.

Tuy nhiên, Hoa Đà nói với Trần Đăng, “Căn bệnh này sau ba năm sẽ tái phát, chỉ gặp được lương y giỏi mới có biện pháp cứu trị”. Ba năm sau, Trần Đăng quả nhiên phát bệnh, đương thời Hoa Đà không còn ở đó, Trần Đăng liền tử vong.

Có hai điểm khiến người ta kinh ngạc về y án này, thứ nhất Hoa Đà biết Trần Đăng có trùng trong bụng chỉ bằng cách bắt mạch, và nguyên nhân là do ăn thịt cá sống! Thứ hai, Hoa Đà cũng dự ngôn rằng Trần Đăng sau ba năm lại sẽ phát bệnh, và nếu không có lương y giỏi ở bên cạnh, ông ấy sẽ chết.

Ngôn đàm của Hoa Đà dường như chỉ ra ông có công năng Thiên mục (mắt thần thứ ba), như thể thấu thị dạ dày của Trần Đăng, và thậm chí còn ẩn ý dự báo trước về cái chết của Trần Đăng.

Những câu chuyện về Hoa Đà dự báo trước tử vong

Những y án được ghi lại trong “Tam quốc chí”, càng thâm nhập vào hành văn, thì càng lúc càng thấy kinh ngạc. Y án Hoa Đà trị bệnh cho viên quan quân đội Lý Thành, ông đã tiên đoán về cái chết của Lý Thành mười tám năm sau.

Lý Thành trường kỳ khổ sở vì ho, ngày đêm không cách nào ngủ được, lại thường xuyên nôn ra máu mủ, bèn đặc biệt đến thỉnh giáo Hoa Đà. Hoa Đà nói: “Trong ruột của ngài có một khối u, những thứ khạc ra, đều không phải từ phổi mà ra. Ta cho ngài hai tiền bột thuốc, ngài sau khi uống bột thuốc, sẽ khạc ra hơn hai thăng máu mủ. Hãy nghỉ ngơi thật tốt, một tháng nữa ngài có thể trở thân, bảo dưỡng tốt, một năm sẽ lấy lại sức khỏe. Thế nhưng, 18 năm sau sẽ phát tác một lần, không nghiêm trọng, dùng tán dược, sẽ chóng khỏi. Nếu đến lúc đó không có thuốc này, thì sẽ tử vong.” sau đó đưa cho Lý Thành hai tiền bột thuốc, Lý Thành nhận thuốc rồi đi.

Năm sáu năm sau, người thân của Lý Thành lâm bệnh, bệnh trạng cũng tương tự Lý Thành, bèn nói với Lý Thành rằng: “Bác hiện tại thân thể khỏe mạnh, còn tôi thì sắp chết, bác sao có thể nhẫn tâm nhìn tôi không thuốc chữa? Nếu bác có thể cho tôi mượn thuốc bột, tôi khỏe rồi, sẽ thay bác đi tìm Hoa Đà lấy thuốc.” Lý Thành liền đưa thuốc cho người thân. Sau đó, người thân này đặc biệt đến huyện Tiếu, lúc đó vừa khớp Hoa Đà bị giam giữ, ông ta trong lúc hoảng loạn sợ hãi đã không dám gặp Hoa Đà xin thuốc.

Mười tám năm sau, bệnh tình của Lý Thành thực sự phát tác, không có thuốc để uống, cuối cùng ông chết.

Từ y thuật thần diệu, đến khả năng thấu thị nhân thể, và cuối cùng là tiên đoán được ngày tàn của bệnh nhân, trong văn cú của Trần Thọ – tác giả “Tam quốc chí”, mang chứa đầy ẩn ý bất khả tư nghị.

Hoa Đà có công năng túc mệnh thông, biết trước quá khứ và tương lai

Nếu chỉ thuần túy từ góc độ của một lương y mà lý giải, thì xác thực rất khó giải thích; thế nhưng, nếu có thể nhìn nhận từ giác độ tu luyện, thì mọi thứ đều rõ ràng hiển nhiên.

Một người có tố chất tu luyện là có thể được trang bị công năng đặc dị, bao gồm Thiên mục (mắt thần) có thể thấu thị nhân thể, cũng như công năng túc mệnh thông có thể dự đoán trước sinh tử. Chúng ta có thể suy luận một cách hợp lý rằng, Hoa Đà là người tu luyện có thành tựu, sẵn có nhiều loại công năng.

Con trai hai tuổi của Trần Thúc Sơn ở huyện Đông Dương đổ bệnh, trước khi bị tiêu chảy, cậu bé luôn khóc không dừng, cơ thể ngày một yếu đi. Vì vậy, họ liền đến thỉnh giáo Hoa Đà, Hoa Đà nói: “Khi mẹ đứa trẻ mang thai, dương khí bị tắc nghẽn bên trong, trong thời gian cho con bú, thân thể suy nhược, khí lạnh xâm nhập, nên khí lạnh từ thân thể mẹ tràn vào thân thể đứa trẻ, do đó mới không cách nào thuyên giảm.” Hoa Đà liền kê đơn “tứ vật nữ uyển hoàn”, mười ngày sau, bệnh của đứa trẻ liền khỏi.

Hoa Đà có thể nhìn ra bệnh của đứa trẻ dẫn khởi từ khi là cái thai trong bụng mẹ và trong thời gian cho con bú, bởi vì ông ấy đã nhìn thấy tình huống cụ thể của đứa trẻ khi còn là thai nhi.

Một y án khác là cái chết của một quan chức trong quân đội, Mai Bình.

Mai Bình sinh bệnh nên từ chức trở về nhà, nhà ông ở Quảng Lăng, một thời gian ông ở nhà một người thân thích cách nhà chưa đầy 200 dặm. Một ngày nọ, Hoa Đà tình cờ đến nhà người chủ, chủ nhà thỉnh cầu Hoa Đà xem xét tình trạng bệnh của Mai Bình. Hoa Đà nói với Mai Bình: “Nếu bác tìm đến tôi sớm một chút, có lẽ bệnh không đến mức này. Hiện tại bệnh của bác đã vào rất sâu, hãy mau chóng trở về nhà, gọi người nhà đến diện kiến, năm ngày sau e tính mạng bất bảo toàn.” Mai Bình nhanh chóng về nhà, năm ngày sau đó, Mai Bình khí tuyệt, hết thảy đều như Hoa Đà đã nói, không sai một ly.

Sinh tử có mệnh, bác sĩ có thể làm gì?

Tu luyện ngày càng thâm sâu, Hoa Đà dần dần lý giải được rằng, người tu luyện vì xuất tâm từ bi, có thể giúp người trị bệnh, nhưng không thể hoàn toàn trị bệnh tận gốc, thường chỉ có thể đẩy lùi bệnh về sau, tạm thời giải quyết nỗi thống khổ do bệnh tật mà thôi.

Hoa Đà có công năng túc mệnh thông, biết rõ sinh tử có mệnh, có rất nhiều bệnh là có nhân duyên nghiệp lực, nghiệp bệnh đời này có thể hoàn trả nợ nghiệp từ kiếp trước, đó không phải là chuyện xấu, chẩn trị của liệu pháp y học có khi là không cần thiết. Do đó, ông bắt đầu ít tích cực hơn trong việc chữa trị cho bệnh nhân, và cũng coi nhẹ danh lợi được mất của nghề y.

Bởi vì tầng thứ tu luyện của ông đã siêu việt sự lý giải của người thường, những gì ông nói có thể khiến người thường không lý giải được, thậm chí phát sinh hiểu nhầm. Vì vậy, ở phần cuối của sử truyền, đều có lời phê bình: “Nhiên bổn tác sĩ nhân, dĩ y kiến nghiệp, ý thường tự hối”, “vi nhân tính ác nan đắc ý, thả sỉ dĩ y kiến nghiệp”, ý tứ là nhìn nhận Hoa Đà sau này hối hận vì đã lựa chọn hành nghề y sinh, cá tính ác liệt, rất khó khiến người ta yêu thích. Kỳ thực, là vì họ không lý giải được bản chất của Hoa Đà là một người tu luyện. 

Trong ghi chép của sử truyền có một y án, là một ví dụ rất có tính biểu tượng.

Một sĩ đại phu thân thể không khỏe, Hoa Đà rằng: “Bệnh của bác đã rất sâu rồi, phải mổ bụng trị liệu. Tuy nhiên, thọ mệnh của bác vẫn còn mười năm, hiện tại bệnh này sẽ không lấy mạng bác, nếu bác có thể nhẫn nại mười năm, thì thọ mệnh của bác cũng vừa hết, vì duyên cố này bác không nhất định phải mổ bụng.”

Từ lý ở cao tầng mà xét, chịu đau bệnh có thể hoàn trả nghiệp lực, đó là điều tốt. Nhưng vị sĩ đại phu này không muốn nhẫn chịu sự đau đớn và ngứa ngáy trên cơ thể, và hẳn là ông ấy không thể lý giải lời của Hoa Đà, muốn ông ấy phải chịu đựng thống khổ bệnh tật trong mười năm, do đó nhất định yêu cầu phải phẫu thuật trừ bệnh. Hoa Đà đành mổ bụng chữa trị, bệnh tình nhanh chóng bình phục, triệu chứng bề mặt rõ ràng tiêu trừ, nhưng mười năm sau ông ta quả thực đã chết.

Túc duyên oan nghiệt của Hoa Đà và Tào Tháo

Hoa Đà đồng tụ với người đồng hương là Tào Tháo sau khi Tào Tháo chiếm được Nghiệp Thành. Tào Tháo đối với tu đạo dưỡng sinh thập phần hứng thú, nên đã bắt đầu chiêu mộ một số lượng lớn những người tu luyện danh tiếng đến Nghiệp Thành, Hoa Đà là một trong số đó, trong số đó còn có Tả Từ, Cam Thủy, Lãnh Thọ Quang, Lỗ Nữ Sinh và Khước Kiệm v.v. Họ đều cao thọ, đạt đến hơn 200 tuổi, nhưng có dung mạo trẻ trung, còn có thần thông như có thể phân nhân, ẩn hình v.v.

Thần y Hoa Đà không tránh khỏi mất mạng khi ông trị bệnh cho Tào Tháo

Tào Tháo xưa nay có bệnh kinh niên là đau đầu, mỗi lần phát tác, đều tâm loạn mắt huyễn, chỉ cần Hoa Đà châm cứu trị liệu thì cơn đau sẽ giải trừ ngay, vì vậy Tào Tháo giữ Hoa Đà kè kè bên mình. Tuy nhiên, Hoa Đà nói với Tào Tháo rằng: “Bệnh này rất khó trị, trị liệu trường kỳ, dần dần mới hoãn giải, cũng có thể kéo dài thọ mệnh.

Thực ra, Hoa Đà có công năng túc mệnh thông, có thể thấy trước duyên cố của mình với Tào Tháo. Ông biết rằng Tào Tháo tương lai sẽ chết vì bệnh này, và bản thân ông cũng phải cam chịu chết dưới tay Tào Tháo.

Hoa Đà vì vậy muốn từ chức để hồi hương, Tào Tháo mấy lần sai người đến thỉnh cầu ông trở lại, ông đều ngụy xưng rằng vợ mình sinh bệnh không khỏe, chần chừ né tránh quay lại càng lâu càng tốt. Do đó Tào Tháo phái người đến nhà Hoa Đà điều tra sự tình, dặn bảo thủ hạ: Nếu quả vợ ông ta thực sự bị bệnh, thì tiện ban thưởng cho tiểu đậu bốn ngàn thăng, gia thêm kỳ hạn; còn nếu là lừa gạt, thì lập tức bắt ông ta tống hồi về ngay. Sau này, Tào Tháo phát hiện Hoa Đà nói điêu, trong tâm cảm thấy rất tức khí, vì vậy mà tống ông vào ngục.

Khi đó, Tuân Úc cũng đã cầu xin thay cho Hoa Đà: “Y thuật của Hoa Đà thực tại là phi thường cao siêu, sinh tử của ông ấy liên quan đến nhân mạng, vì vậy nên bao dung và khoan thứ cho ông ấy.” Nhưng Tào Tháo nhận định Hoa Đà cố ý không trị khỏi bệnh cho ông ta, nhục mạ Hoa Đà là tiểu nhân khuyết thiếu y đức, thậm chí chế giễu Hoa Đà, còn gọi ông là “lũ chuột”. Cuối cùng, Hoa Đà không thể nhảy thoát khỏi định mệnh của bản thân, chết trong nhà ngục, Tào Tháo cuối cùng cũng chết vì bệnh đó.

Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, có mô tả rằng Hoa Đà đã tặng cuốn sách y “Thanh nang thư” do chính ông viết cho một quản ngục tốt bụng trước khi chết. Không ngờ, vợ của người quản ngục đã đốt hủy nó. Quả là “Trù trướng nhân vong thư diệc tuyệt, hậu nhân vô phục kiến thanh nang” – buồn vì người chết, sách cũng không còn, người đời sau không còn được thấy cuốn thanh nang của Hoa Đà nữa.

Sở dĩ Hoa Đà, thần y một thời, trở thành huyền thoại thiên cổ, tất nhiên là bởi y thuật tinh diệu của ông, mà thực chất của nó, là do ông là một người tu Đạo có thành tựu, do đó có thể nhìn thấy những gì mà người khác nhìn không thấy, chữa những bệnh mà người khác không thể chữa. Tuy nhiên, nhân quả tuần hoàn, nghiệp lực luân báo, mỗi người đều có số mệnh, duyên trần thế cũng đến lúc tận. Hoa Đà đã tu luyện đến tầng thứ cao, cuối cùng ngộ được rằng y thuật chỉ có thể tạm thời trị bệnh một thời gian, tu Đạo có thể tận thoát khỏi khổ nạn thế gian, phản bổn quy chân, vĩnh đắc tự tại.

Trong điển tịch của Đạo giáo, Hoa Đà sau khi trải qua truyền kỳ nhân gian, tu hành đắc đạo, quy vị thành “Chân nhân”, được xưng tụng là “Thanh nang tế thế Hoa Chân nhân”.

Tài liệu tham khảo:
“Trung Tàng kinh”
“Hoa Đà biệt truyền”
“Tam Quốc chí: Phương kỹ truyền”
“Hậu Hán thư: Phương thuật liệt truyền hạ”
“Bác vật chí tập năm”
“Tam Quốc Diễn Nghĩa”
“Nguyên thủy thiên tôn thuyết bắc phương bắc đế phục ma pháp sám”

Tác giả: Lý Dực Vân, Epoch Times,
Hương Thảo biên dịch