Mới đây, chính phủ Trung Quốc đã công khai rầm rộ về việc hàng không mẫu hạm Phúc Kiến khởi hành chạy thử trên biển. Theo nhà bình luận gốc Hoa, Thẩm Chu (沈舟), 2 chiếc hiện đang phục vụ cho Bắc Kinh chỉ có thể coi là không có ưu điểm gì. Thậm chí, so với đồ của Nhật Bản hơn 80 năm trước, năng lực chiến đấu trên hàng không mẫu hạm của ĐCSTQ vẫn có khoảng cách rõ ràng. 

Quân đội Nhật Bản từng phái sáu hạm đội hàng không mẫu hạm đánh lén Trân Châu Cảng của Mỹ. Bây giờ Bắc Kinh có vẻ khoa trương nhưng thực tế thì đồ của họ còn lâu mới sánh bằng.

Quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng bằng 6 hàng không mẫu hạm 

83 năm trước, ngày 7/12/1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, cảng quân sự của Mỹ ở Hawaii.

Quân đội Hoa Kỳ đã lơ là đề phòng, và các cuộc không kích của Nhật Bản đã gây thiệt hại nặng nề cho quân đội Hoa Kỳ, kích động cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, đồng thời tấn công Philippines, Malaysia, Guam và các nơi khác, nhưng cuối cùng bị quân đội Hoa Kỳ đánh bại. 

Sau chiến tranh, Nhật Bản trở lại hòa bình và từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt. Nhà bình luận Thẩm Chu cho rằng, ngày nay, ĐCSTQ đã dấn thân vào con đường chủ nghĩa quân phiệt, cố gắng hết sức để phát triển hàng không mẫu hạm. Đầu tiên, họ bắt chước Liên Xô cũ, nhưng cuối cùng lại đi đường vòng, và giờ đây họ đã bắt chước Hoa Kỳ.

Tuyên truyền của ĐCSTQ là bác bỏ các hàng không mẫu hạm trước đây của Nhật Bản, tin rằng đồ của họ vượt xa đồ của Nhật Bản 80 năm trước về cả trọng tải và công nghệ. Tuy nhiên, theo nhà bình luận Thẩm Chu, trước sức mạnh thực chiến mà các hàng không mẫu hạm Nhật Bản thể hiện, ĐCSTQ chỉ có thể đối diện với sự thất vọng.

Ngày 26/11/1941, quân đội Nhật điều động 6 hàng không mẫu hạm đến vùng biển Hawaii. Các tàu ngầm cũng bí mật lẻn vào và tiến hành tấn công cùng lúc.

Sáng 7/12, hàng không mẫu hạm Nhật Bản cất cánh đợt đầu tiên gồm 183 chiến đấu cơ. Mục tiêu là các chiến hạm Mỹ đậu dày đặc ở Trân Châu Cảng. Do hàng không mẫu hạm của Mỹ không có mặt tại cảng nên các thiết giáp hạm nặng hàng chục nghìn tấn trở thành mục tiêu chính.

Nhóm thứ nhất có tổng cộng 89 máy bay tấn công hoạt động trên hàng không mẫu hạm Type 97, trong đó có 49 chiếc mang bom xuyên giáp nặng 1.760 pound và 40 chiếc mang ngư lôi Type 91.

Nhóm thứ hai có tổng cộng 51 máy bay ném bom hoạt động trên hàng không mẫu hạm Type 99, mang theo bom nặng 550 pound.

Nhóm thứ ba có tổng cộng 43 chiến đấu cơ Zero tranh giành ưu thế trên không và tấn công mặt đất.

Trong đợt tấn công đầu tiên của Nhật Bản, khoảng 8 quả bom xuyên giáp nặng 1.760 pound đã đánh trúng mục tiêu thiết giáp hạm, đồng thời 17 quả ngư lôi cũng đánh trúng mục tiêu thiết giáp hạm. Quân đội Hoa Kỳ đã mất cảnh giác. Chỉ có 1/4 số súng máy phòng không được đưa vào chiến đấu và chỉ có 4 trong số 31 khẩu đội pháo phòng không được đưa vào sử dụng.

Sau đó đợt cất cánh thứ hai trên hàng không mẫu hạm gồm 171 chiến đấu cơ, nhắm vào sân bay quân sự Mỹ.

Nhóm đầu tiên có tổng cộng 54 máy bay tấn công hoạt động trên hàng không mẫu hạm Type 97, mang theo bom nặng 550 pound và 132 pound.

Nhóm thứ hai có tổng cộng 81 máy bay ném bom hoạt động trên hàng không mẫu hạm Type 99, mang theo bom nặng 550 pound.

Nhóm thứ ba có tổng cộng 36 chiến đấu cơ Zero, chịu trách nhiệm kiểm soát trên không và oanh tạc mặt đất.

Hai đợt không kích của Nhật Bản kéo dài 90 phút và đạt được kết quả đáng kể. 18 chiến hạm Mỹ bị đánh chìm hoặc mắc cạn, trong đó có 8 thiết giáp hạm, 3 tàu tuần dương và 3 tàu khu trục; chiến hạm USS Arizona trọng tải 32.000 tấn bị phá hủy hoàn toàn và không thể sửa chữa được. 2.402 lính Mỹ thiệt mạng và 1.282 người bị thương.

Trong số 402 chiến đấu cơ của quân đội Mỹ đóng tại Hawaii, 188 chiếc bị phá hủy và 159 chiếc bị hư hại. Chỉ có 8 phi công cất cánh kịp thời và 6 chiếc được cho là đã bắn rơi ít nhất một chiến đấu cơ của Nhật Bản.

55 phi công Nhật Bản và 9 thủy thủ tàu ngầm thiệt mạng trong cuộc tấn công và 1 người bị bắt. 354/414 máy bay trên hàng không mẫu hạm Nhật Bản tham gia các cuộc không kích, và chỉ một số không thể cất cánh; 9 máy bay bị tổn thất trong đợt đầu tiên và 20 chiếc trong đợt thứ hai. Do tổn thất lớn hơn ở đợt thứ hai, quân Nhật lo ngại hỏa lực phòng không Mỹ sẽ mạnh hơn nên không tiến hành đợt không kích thứ ba, không đánh chìm được thêm chiến hạm Mỹ, đồng thời cũng bắn trượt cơ sở bảo trì và kho chứa dầu của quân đội Mỹ. Quân đội Nhật Bản cũng lo lắng hạm đội hàng không mẫu hạm khổng lồ có thể gặp phải đòn phản công của quân đội Mỹ nếu ở lại lâu nên đã ra lệnh quay trở lại ngay lập tức.

Ông Isoroku Yamamoto, người đang ngồi tại sở chỉ huy vào lúc đó, lấy làm tiếc vì chỉ huy tiền tuyến Nagumo đã không phát động đợt không kích thứ ba, vì điều này có thể trì hoãn cuộc phản công của quân đội Mỹ thêm 1 đến 2 năm nữa. Kết quả, trong số 21 chiến hạm bị hư hỏng của quân đội Mỹ, chỉ có 3 chiếc không được sửa chữa, số còn lại nhanh chóng được khôi phục và đưa vào sử dụng.

83 năm trước, hạm đội hàng không mẫu hạm Nhật Bản lần đầu tiên thực hiện các cuộc không kích quy mô lớn; 83 năm sau, các hàng không mẫu hạm của Trung Quốc vẫn thiếu khả năng không kích tương tự.

Quy mô của hạm đội hàng không mẫu hạm Nhật Bản

Nhật Bản bắt đầu đóng hàng không mẫu hạm đầu tiên vào năm 1919. 22 năm sau, vào thời điểm phát động Chiến tranh Thái Bình Dương năm 1941, Nhật Bản đã có 6 hàng không mẫu hạm chính, bao gồm:

Tàu Akagi có lượng giãn nước đầy tải 36.000 tấn và mang theo tối đa 91 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tàu Kaga có lượng giãn nước đầy tải là 38.000 tấn và có thể mang theo tối đa 90 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tàu Shokaku có lượng giãn nước đầy tải là 32.000 tấn và có thể mang tối đa 84 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tàu Zuikaku có lượng giãn nước đầy tải là 32.000 tấn và có thể mang tối đa 84 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tàu Soryu có lượng giãn nước đầy tải là 19.000 tấn và có thể mang theo tối đa 72 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tàu Hiryu có lượng giãn nước đầy tải là 17.600 tấn và có thể mang theo tối đa 73 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Tốc độ của 6 hàng không mẫu hạm chính này dao động từ 31,5 hải lý/giờ (tương đương 58,3 km/giờ) đến 34,5 hải lý/giờ (hay 63,9 km/giờ), và tầm hoạt động tối đa của chúng dao động từ 12.200 km đến 19.000 km, tương đương với các chiến hạm hiện đại.

Ngoài ra, còn có 6 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ. Tốc độ tối đa của 6 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ này dao động từ 25 hải lý/giờ (hay 46 km/giờ) đến 29 hải lý/giờ (hay 54 km/giờ), và tầm hoạt động tối đa dao động từ 11.800 km đến 19.000 km. Chúng chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hộ tống và cũng có thể hợp tác với các hàng không mẫu hạm chủ lực khi cần thiết. Trọng tải của chúng vào thời điểm đó nhỏ hơn so với các hàng không mẫu hạm hiện đại, và lớn nhất gần bằng tàu tấn công đổ bộ 40.000 tấn hiện đang phục vụ trong quân đội Mỹ, sánh ngang với các chiến hạm hiện đại và tầm bắn của chúng thậm chí còn xa hơn.

Hàng không mẫu hạm Sơn Đông của Trung Quốc có lượng giãn nước từ 60.000 đến 70.000 tấn, tốc độ tối đa 31 hải lý/giờ (tương đương 57 km/giờ) và tầm hoạt động tối đa chưa được xác định. Nó được cho là có thể chở 36 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm, bao gồm 24 chiếc J-15 và 12 chiếc trực thăng. 

Hàng không mẫu hạm Phúc Kiến dự kiến ​​sẽ mang theo 60 máy bay hoạt động, trong đó có 36 đến 40 chiến đấu cơ J-15T (hoặc J-35), chiến đấu cơ điện J-15D, máy bay cảnh báo sớm KJ-600 và 20 máy bay trực thăng.

Nhà bình luận Thẩm Chu cho hay, máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai không thể so sánh với chiến đấu cơ hiện đại, tốc độ không cao nhưng trọng lượng nhẹ. Hàng không mẫu hạm có thể chở được số lượng lớn máy bay và tầm hoạt động của nó cũng có thể đáp ứng yêu cầu trong thời gian dài và các cuộc tấn công từ xa. Sức mạnh của các cuộc không kích quy mô lớn được nêu bật.

Khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng năm 1941, Hải quân của họ có hơn 3.089 máy bay các loại và 370 máy bay huấn luyện. Có tổng cộng 1.830 chiến đấu cơ tiền tuyến, bao gồm 660 chiến đấu cơ, 330 máy bay tấn công trên hàng không mẫu hạm, 240 máy bay ném bom trên đất liền, 520 chiến đấu cơ dưới nước và máy bay trinh sát. Nhà bình luận Thẩm Chu nhận định, quy mô và sức mạnh này Hải quân Trung Quốc không thể sánh được, riêng số lượng phi công đã khác xa.

Đẳng cấp thực sự của hàng không mẫu hạm của Trung Quốc

Năm 2005, hàng không mẫu hạm Varyag cũ của Liên Xô được Trung Quốc mua đã được đưa vào Nhà máy đóng tàu Đại Liên. Đến năm 2024, các hàng không mẫu hạm của Trung Quốc cũng đã được phát triển được gần 20 năm. Có 2 hàng không mẫu hạm đang hoạt động, 1 chiếc đang được đóng và khoảng 60 chiếc tiêm kích J-15 dù là tiêm kích hạng nặng đa năng hoạt động nhưng khả năng thực chiến của chúng không hề tốt.

Nhà bình luận Thẩm Chu giải thích, J-15 mô phỏng S-33 của Nga có trọng lượng rỗng 17,5 tấn, tổng trọng lượng 27 tấn và trọng lượng cất cánh tối đa 32,5 tấn, quá nặng đối với một máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm, do đó không thể cất cánh khi đầy tải. 

Hàng không mẫu hạm Trung Quốc đã nhiều lần cất cánh và hạ cánh J-15 bên ngoài chuỗi đảo đầu tiên, khả năng mang theo hỏa tiễn không đối không cũng bị hạn chế, tầm bắn bị thu hẹp đáng kể, rất khó để thực sự tiến hành các cuộc không kích từ biển. Theo nhà bình luận Thẩm Chu, ý tưởng thiết kế ban đầu của hàng không mẫu hạm Liên Xô cũ là mở rộng phạm vi phòng không ven biển chứ không phải để tiến hành các cuộc không kích.

Tổng trọng lượng của 3 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai là khoảng 3,8 tấn. Nhà bình luận Thẩm Chu nhận định, có thể thấy, các kỹ sư Nhật Bản đã trải qua quá trình thiết kế và lên kế hoạch cẩn thận. Những chiếc máy bay hạng nhẹ này có thể dễ dàng cất cánh và hạ cánh trên boong hàng không mẫu hạm. Do số lượng máy bay nhiều nên việc cất cánh và hạ cánh theo trình tự là một khó khăn lớn.

Hàng không mẫu hạm Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, tiêm kích J-15 không phù hợp với vai trò tiêm kích hạm, J-35 vẫn chỉ là tin đồn. Hàng không mẫu hạm thứ ba của Trung Quốc, Phúc Kiến, sử dụng hệ thống phóng điện từ, hy vọng có thể phóng tiêm kích J-15T, J-15D và máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-600 cải tiến cất cánh, nhưng điều này vẫn chưa được xác minh.

Trung Quốc không chỉ thiếu hàng không mẫu hạm, mà các máy bay cất cánh trên hàng không mẫu hạm này cũng chưa được trang bị đầy đủ, bao gồm cả nhiều loại trực thăng. Bắc Kinh đang chờ tàu Phúc Kiến hoàn thiện trước khi có thể thử nghiệm trên tàu. Số lượng máy bay và phi công hoạt động trên rất hạn chế. 

Vào năm 2023, phần lớn lực lượng không quân của Hải quân được chuyển giao cho Không quân, chỉ còn lại hai căn cứ huấn luyện J-15 ở Hưng Thành, tỉnh Liêu Ninh và Lăng Thủy, tỉnh Hải Nam. Căn cứ thứ ba đang được thành lập ở Đại Trường, Thượng Hải, nhưng các biến thể J-15 khác nhau sẽ được thử nghiệm để phù hợp với máy phóng của Phúc Kiến. Những chiếc J-15 của Liêu Ninh và Sơn Đông dường như trở nên vô dụng.

Nhà bình luận Thẩm Chu chỉ ra rằng, hàng không mẫu hạm của Trung Quốc đã ở gần Guam và vẫn cách Hawaii rất xa nên việc đánh lén là điều không thể. Quân đội Trung Quốc thực sự chưa có khả năng tấn công trên không như hàng không mẫu hạm Nhật Bản thể hiện cách đây 83 năm. Quy mô của hải quân Nhật Bản nằm ngoài tầm với của Trung Quốc.

Hải quân Nhật Bản xưa và nay

Khi người Nhật tấn công Trân Châu Cảng năm 1941, họ đã phái 6 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm, 2 tàu tuần dương hạng nặng, 1 tàu tuần dương hạng nhẹ, 9 tàu khu trục, 8 tàu chở dầu, 23 tàu ngầm, 5 tàu ngầm hạng nhỏ và tổng cộng 414 máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm.

Sau đó, quân đội Nhật Bản và quân đội Hoa Kỳ phát động Trận chiến biển San hô, Trận chiến đảo Midway và Trận quần đảo Solomon. Tiếp theo, quân đội Nhật Bản chịu tổn thất lớn về hàng không mẫu hạm, ít nhất 5 chiếc mới và 5 chiếc hạng nhẹ được chế tạo hoặc cải tiến, và cuối cùng tất cả đều bị mất trong trận hải chiến quần đảo Mariana và Philippines.

Trong Chiến tranh Thái Bình Dương, quân đội Nhật Bản có 13 hàng không mẫu hạm, 10 hàng không mẫu hạm hộ tống, 12 thiết giáp hạm lớn, 18 tàu tuần dương hạng nặng, 25 tàu tuần dương hạng nhẹ, 169 tàu khu trục, 180 tàu khu trục hộ tống và 195 tàu ngầm. Một hạm đội khổng lồ như vậy cuối cùng vẫn bị Hoa Kỳ đánh bại. 

Trung Quốc hiện có 2 hàng không mẫu hạm, 8 tàu khu trục 055, có 25 tàu khu trục 052D, 13 tàu khu trục thử nghiệm 051/052 (B/C) các loại, 4 tàu khu trục lớp hiện đại, có 42 khinh hạm 054(A), có 41 tàu ngầm chạy bằng năng lượng thông thường và 9 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân, gần như phân bố đều giữa ba chiến trường. Chuyên gia Thẩm chỉ ra rằng, nỗ lực của ĐCSTQ nhằm thách thức quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này là đánh giá quá cao khả năng của mình.

Hải quân Chiến khu phía Bắc của Trung Quốc có một hàng không mẫu hạm, 4 tàu khu trục Loại 055, 8 tàu khu trục Loại 052D, 4 tàu khu trục Loại 051C/052 được sản xuất thử nghiệm, 9 tàu khu trục Loại 054A và 13 tàu ngầm, nước này đã nhiều lần cử tàu chiến đi vòng qua Nhật Bản. 

Sự khiêu khích có chủ ý của ĐCSTQ đã buộc Nhật Bản phải tăng đáng kể chi tiêu quân sự và tăng cường khả năng phản công. Trung Quốc đã biến nước láng giềng thân cận của mình thành kẻ thù hùng mạnh, đưa Nhật Bản và Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ hơn.

Chuyên gia Thẩm Chu đánh giá, so với chủ nghĩa quân phiệt của Nhật Bản 80 năm trước, chủ nghĩa quân phiệt của ĐCSTQ thậm chí còn tệ hơn. Tuy nhiên, sức mạnh thực chiến của quân đội Trung Quốc có sự chênh lệch rất lớn, họ cũng biết rằng có quá nhiều “sức mạnh quân sự ảo” được biểu diễn. 

Trong lúc quân đội Trung Quốc đang trong tình trạng nội loạn, hàng không mẫu hạm Phúc Kiến được sử dụng để làm công cụ truyền thông chính trị, nhưng điều này không thể che giấu được sức mạnh thực chiến của hàng không mẫu hạm Trung Quốc, cũng như không thể che giấu đi sự yếu kém ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc.