Cầm, kỳ, thư, họa là tứ nghệ của văn nhân Trung Quốc; trong đó cầm là đứng đầu. Gọi là “đốt hương gảy đàn” là thể hiện tinh thần “sạch sẽ” và “thanh tịnh” đối với thưởng thức nghệ thuật cầm lạc.

Trong «Tân luận – Cầm đạo thiên» của Hoàn Đàm (23 – 56 TrCN) ghi: “Xưa Thần Nông kế tục Bào Hy làm vua thiên hạ, trên theo phép trời, dưới theo phép đất, gần lấy thân, xa lấy vật, vót cây ngô đồng làm cầm, lấy thừng làm dây, lấy đức thần linh hòa cùng trời đất”. Như vậy, kết cấu của “cầm” tượng trưng cho đức của thần linh, hòa điệu cùng trời đất.

Đã là chế tạo của thánh hiền, “cầm” đương nhiên là công cụ để phát dương đạo đức tinh thần của tiên hiền. Vì thế, mỗi khâu trong quá trình chế tạo “cầm” đều bao hàm ý nghĩa đặc biệt.

Ví dụ: Tiêu chuẩn hình dạng của “cầm” là trước rộng sau hẹp, đây là ý nghĩa tượng trưng cho sự tôn ti. Trong «Phong tục thông» của Ứng Thiệu thời Đông Hán có ghi lại: “Cầm đài 4 thước 5 tấc, theo Tứ thời Ngũ hành; 7 dây tượng trưng cho 7 tinh tú, dây lớn là quân, dây nhỏ là thần, thêm 2 dây Văn vương và Võ vương, mang ý nghĩa ân huệ vua tôi”. Có thể thấy “cầm” ban đầu có 5 dây tượng trưng cho Ngũ hành, sau thêm 2 dây Văn vương và Võ vương để có nội hàm ý nghĩa ân huệ của vua tôi.

Về âm vị của đàn Cổ Cầm, trong «Cầm tiên» của Thôi Tôn Độ (954 – 1020) triều nhà Tống có kể rõ: “13 Huy tượng trưng cho các tháng trong năm, ở giữa tượng trưng cho nhuận”. Vốn là đàn cổ có 12 Huy (âm vị) tượng trưng cho 12 tháng, còn Huy lớn nhất ở giữa đại biểu cho Quân vương, tượng trưng cho tháng nhuận.

Ngoài ra đàn Cổ Cầm còn có 3 loại âm sắc: “âm phiếm”, “âm án” và “âm tản”, tượng trưng cho Thiên, Địa, Nhân hòa hợp. Trong «Lạc thác – Ngụy Văn Hầu» ghi: “Quân tử nghe âm cầm sắt, tất nghĩ về bề tôi có chí nghĩa”. Có nghĩa là âm sắc dịu dàng của dây cầm sắt là để liên hệ đến bề tôi có chí nghĩa chính trực, trung hậu.

Lịch sử đàn Cổ Cầm có thể truy về 3000 năm trước, các văn nhân hiền sĩ ngày xưa thường nhờ đàn Cổ Cầm mà nổi danh thiên hạ, như bậc thánh hiền Khổng Tử chính là một nhà soạn nhạc cũng như diễn tấu Cổ Cầm nổi tiếng; hay như Bá Nha nổi danh thời Xuân Thu cũng qua quá trình học Cổ Cầm trên đảo Bồng Lai, cho chúng ta lãnh hội được trí tuệ “lặng nhìn đất trời, thuận theo tự nhiên”.

Vạn Hác Tùng Đào Cầm thời Đường Tống - Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan
Vạn Hác Tùng Đào Cầm thời Đường Tống – Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan

Trong mưu kế “bỏ trống thành” nổi tiếng thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã dùng cách gảy đàn Cổ Cầm âm điệu khoan thai để đẩy lùi mười vạn quân của Tư Mã Ý. Thời Ngụy-Tấn, Kê Khang tinh thông đàn Cổ Cầm, tuy bị Tư Mã Chiêu hãm hại, nhưng trước khi bị tử hình vẫn thản nhiên diễn tấu bài Quảng Lăng đã thất truyền, làm cảm động trời đất, quỷ sợ thần khóc.

Đây là những câu chuyện nổi tiếng lịch sử liên quan đến đàn Cổ Cầm, từ đây chúng ta phần nào hiểu được tinh thần của các sĩ phu và văn nhân Trung Quốc cổ đại đối với loại nghệ thuật này.

Âm điệu đàn Cổ Cầm có thể khiến tâm trạng chúng ta khi nghe cảm thấy có gì đó thanh cao cổ xưa, là vì người xưa nghiên cứu rất cẩn thận về thời cơ, tâm tình, dáng vẻ, bầu không khí, thậm chí lựa chọn đối tượng khi chơi đàn. Có thuyết gọi là “lục kỵ, thất bất đàn” (6 điều kiêng kỵ và 7 điều cấm khi đàn).

“Lục kỵ” là chỉ 6 hiện tượng thời tiết, gồm: đại hàn, đại thử, đại phong, đại vũ, tấn lôi và đại tuyết; “thất bất đàn” gồm: nghe tin có tang ma, khi tấu nhạc ồn ào, khi có sự cố lộn xộn, người không sạch sẽ, áo mũ không ngay ngắn, không đốt hương, và không gặp tri âm.

Tranh uống trà nghe đàn - Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan
Tranh uống trà nghe đàn – Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan

Trong «Thần kỳ bí phổ» thời nhà Minh đã chỉ rõ: “Cổ Cầm là vật do thánh nhân làm thành, theo thuật chính tâm, dẫn chính sự, hòa lục khí, điều ngọc chúc, đúng là linh khí của trời đất, là thần vật của đời thái cổ, là giai điệu để thánh nhân quản lý việc nước, là vật để quân tử tu dưỡng”.

Như vậy, “cầm” được xem là một khuê biểu để thánh nhân quản lý quốc sự, là điểm tựa để người quân tử tu tâm dưỡng tính, vì thế chỉ cần làm trái khí phách của thánh nhân và quân tử thì nhất định không đàn.

Trong «Bạch hổ thông» Ban Cố (32 – 92) đã chú giải tuyệt vời về nội hàm của “cầm”: “Kẻ đàn, nhẫn nhịn, vì thế nghiêm cấm tà ma, phải chính nhân tâm”. Như vậy, “cầm” có nội hàm cấm dâm tà và uốn nắn nhân tâm.

Người xưa xem nghệ thuật Cổ Cầm là thể hiện vẻ đẹp, cao quý, trí tuệ vượt ra ngoài thế gian, được xem là cảnh giới “thiên nhân hợp nhất”“thiên địa tương thông”; vì thế âm nhạc Cổ Cầm là thể hiện sâu sắc văn hóa truyền thống Trung Quốc, so với các loại nhạc khí khác có ý nghĩa uyên thâm hơn, là thể hiện cảnh giới tinh thần của thánh nhân trao truyền mà người tu đạo cần phải có.

Cố Âm (古音), Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung

Tinh Vệ biên dịch

Xem thêm: