Rất nhiều truyền thuyết đã làm cho Hoàng Hạc lâu nổi danh là Thánh địa thành Tiên. Ngày xưa, khi hạc vàng bay đến, tháp canh trên ghềnh Hoàng Hộc cùng với các tiên nhân đắc Đạo đã cùng nhau vang danh thiên hạ. Giữa nhân sinh thiên địa, họ như ngựa trắng vượt khe, như phù vân tản khứ, tới nay nhân sự đều không còn…

Hoàng Hạc lâu (tháp Hạc Vàng) là tiên tích thắng địa, ánh chiếu những truyền thuyết trứ danh về tu Đạo thành Tiên. Thôi Hạo, một thi nhân thời Đường, trong bài thơ “Hoàng Hạc lâu” đã mô tả nơi tiên tích này: 

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu

Những kỳ tích cổ nhân tu Đạo thành Tiên đã khiến Hoàng Hạc lâu thanh danh vang thiên hạ.

Nguồn gốc của cái tên “Hoàng Hạc lâu”

“Hoàng Hạc lâu ký” của Diêm Bá Cẩn và “Nhập Thục ký, tập 5” của Lục Du thời Đường đều ghi chép rằng Phí Y, một vị đại tướng quân nhà Thục Hán, đã đăng Tiên tại Hoàng Hạc lâu. Truyền thuyết kể rằng, sau khi Phí Y đăng Tiên, thường cưỡi hạc vàng trở lại nhân gian, đậu trên đỉnh tháp này một lúc, từ đó nó được đặt tên là “Hoàng Hạc lâu”. Hiện tại ở phía đông bắc của Hoàng Hạc lâu có xây thêm một ngôi “đình Phí Y” để phản chiếu truyền thuyết này.

Sau khi Phí Y đăng tiên, ông thường cưỡi hạc vàng trở lại nhân gian, đậu trên tháp Hoàng Hạc. Đây là bức tranh “Hoàng Hạc lâu đồ”, vẽ bởi Hạ Vĩnh triều Nguyên. (phạm vi công cộng)

Phí Y (mất năm 253, tự Văn Vĩ) là một danh thần triều Thục Hán thời Tam Quốc, sơ thời là hoàng môn thị lang của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng rất ngưỡng mộ ông. Ông cùng với Gia Cát Lượng, Tương Uyển, Đổng Doãn, được người dân nước Thục gọi là “tứ anh”.

Tử An cưỡi hạc vàng bay qua

Cũng có một truyền thuyết được ghi lại trong sách “Nam Tề thư – số 7 – Châu Quận Hạ” rằng, Tử An, người tu Đạo thành Tiên theo truyền thuyết, đã từng cưỡi hạc vàng bay qua đỉnh tháp thành Hạ Khẩu do Đông Ngô xây dựng. Tháp canh trên ghềnh Hoàng Hộc ở góc phía tây nam thành Hạ Khẩu chính là Hoàng Hạc lâu.

Vào thời Tam Quốc tranh tài, Hà Khẩu (còn gọi là Lỗ Khẩu, hạ lưu sông Hán thời cổ đại gọi là sông Hà), nơi hạ lưu sông Hán nhập vào sông Trường Giang, kiểm soát và kết nối Tương Xuyên lưỡng địa, đó là vùng đất thủy lục công phòng yếu địa mà nhà binh tất phải tranh đoạt, cũng là địa hạt then chốt của các tay kiếm Đông Ngô.

Vào năm Hoàng Vũ thứ hai (năm 223 SCN), Tôn Quyền ở đối ngạn Hà Khẩu đã xây dựng thành Hạ Khẩu, lập đồn đóng quân trấn thủ. Phía tây thành tiếp giáp sông Trường Giang, và góc phía tây nam của thành là ghềnh Hoàng Hộc. “Trên nhìn xa ra sông núi, dưới sóng lớn gập ghềnh”, theo “Kinh Châu đồ ký” mô tả. Do đó ông đã xây dựng một tháp canh để quan sát trên ghềnh Hoàng Hộc, đó chính là Hoàng Hạc lâu, chiếm lĩnh cao điểm hiểm yếu. (Hoàng Hạc lâu ngày nay nằm ở tây nam thành Vũ Xương).

“Đãn kiến thạch thành đa thảo mộc, túc tri Giang Hạ cửu hưng vong” – chỉ nhìn tường đá rêu phong phủ dày là đủ biết sông Hạ đã trải bao phen hưng vong. Lịch sử đỉnh lập thời Tam Quốc đã trôi qua trước mắt như mây khói, Hoàng Hạc lâu thời nao cũng đã trải qua bao lần được trùng tu xây lại. Vị trí của Hoàng Hạc lâu hiện tại cũng không còn nằm tại địa điểm nguyên gốc ban đầu của nó.

Hiếu tử Tuân Tương ngộ kiến Tiên nhân cưỡi hạc vàng

Trong “Thuật Dị ký” của Nhậm Phưởng thời Nam triều, có câu chuyện Tuân Tương được gặp tiên nhân cưỡi hạc vàng. Tuân Tương (Thúc Vĩ) là một người con hiếu thảo, thích văn chương và đạo thuật, bản thân một mình ẩn cư tu hành, không ăn không uống (tịch cốc).

Chàng từng ngao du vùng Giang Hạ, nghỉ ngơi trên tháp Hoàng hạc. Khi từ trên lầu ngưỡng vọng tám phương, chàng thấy một vật gì đó ở phía tây nam, phiêu nhiên giáng hạ từ trên tầng mây xuống, đột nhiên có một con hạc vàng mang trên lưng một tiên nhân lao tới trước mặt chàng. Hạc vàng thu cánh rồi dừng lại ở ngoài lầu, vị tiên nhân toàn thân mặc áo choàng lông sắc cầu vồng, tiến vào trong lầu, cùng Tuân Tương đối đàm, nói nói cười cười, hai người nói chuyện rất hợp ý. Sau đó vị tiên nhân từ biệt, cưỡi hạc thăng không, rồi biến mất tung ảnh giữa thiên không.

Lã Động Tân tại Hoàng Hạc lâu đắc đạo thăng Tiên

Lã Động Tân triều Đường có thể nói là vị tiên nhân nổi tiếng lẫy lừng nhất Trung Quốc, ông là một trong tám vị Tiên của Đạo giáo Trung Quốc, bổn danh gọi là Lã Nham, tự là Động Tân, Đạo hiệu Thuần Dương Tử. Ông được toàn chân phái xưng tụng là Tổ sư Thuần Dương.

Ảnh: Hai vị tiên Lã Động Tân và Hán Chung Li hội ngộ. (Được phép của Bảo tàng cố cung, Đài Loan)

Trong “Lã Tổ Chí, Tập 1”, ghi rằng, có mười khảo nghiệm mà Chung Li Quyền đưa ra trong “Thập thí Lã Động Tân” trước khi thu nhận ông làm đồ đệ, để khảo nghiệm tâm thuần tịnh của Lã Động Tân đến mức độ nào, có thể đạt đến tiêu chuẩn yêu cầu của người tu Đạo hay không:

  • Lần khảo nghiệm thứ nhất, khi về nhà, thấy toàn bộ người nhà bị bệnh chết cả.
  • Lần khảo nghiệm thứ hai, khi bán hàng, gặp phải người mua keo kiệt, chỉ muốn trả nửa số tiền.
  • Lần khảo nghiệm thứ ba, đúng tân niên Nguyên Đán gặp phải một người ăn xin vừa không ngừng đòi hỏi, vừa ác ngôn chửi rủa lăng mạ rồi rút dao ra.
  • Lần khảo nghiệm thứ tư, khi chăn cừu gặp phải một con hổ lao đến uy hiếp.
  • Lần khảo nghiệm thứ năm, khi đang đọc sách trong một lều cỏ trên núi, gặp một thiếu nữ thanh xuân dung hoa tuyệt thế, liên tục trong ba ngày đêm trêu trọc, buộc phải ngủ cùng ban đêm.
  • Lần khảo nghiệm thứ sáu, trong nhà luôn bị trộm đột nhập cuỗm sạch đồ, khi ông tự đi làm ruộng kiếm sống, ông phát hiện dưới nhát cuốc có hàng chục thỏi vàng.
  • Lần khảo nghiệm thứ bảy, mua đồ đồng từ chợ, sau khi về nhà tất cả chúng biến thành vàng.
  • Lần khảo nghiệm thứ tám, gặp một đạo sĩ điên bán thuốc, nói người tự ngôn tự ngữ uống thuốc này lập tức chết, nhưng mười ngày cũng không bán. Lã Động Tân ngộ đạo đem thuốc mua về nhà, đạo sĩ liền nói với ông: cậu có thể mau mau chuẩn bị hậu sự.
  • Lần khảo nghiệm thứ chín, khi một mình lái thuyền ra lòng sông thì bất ngờ có một cơn gió mạnh làm lật thuyền.
  • Lần khảo nghiệm thứ mười, khi đang ngồi một mình trong phòng, vô số quỷ thần hình thù kỳ dị kéo đến, tất cả đều muốn đánh, muốn giết ông. Còn có kẻ đến đòi nợ mạng.

Lã Động Tân đã lần lượt vượt qua 10 khảo nghiệm, được Chung Ly Quyền thu nhận làm đồ đệ, dạy ông điểm kim thuật (thuật điểm đá thành vàng) để giúp người. Nhưng khi Lã Động Tân biết rằng vàng này sau ba ngàn năm sẽ trở lại là đá như ban đầu, ông không muốn hậu nhân bị tổn thất, nên không học. Chung Ly Quyền thậm chí còn hài lòng hơn, vì thấy tâm huệ của ông thật thâm hậu.

Tương truyền, Lã Động Tân từng truyền đạo và tu hành ở Hoàng Hạc lâu. Theo “Lịch thế chân tiên thể Đạo thông giám” nói, Lã Động Tân “đăng Hoàng Hạc lâu, vào giờ Ngọ ngày 20 tháng 5 thăng thiên mà đi”.

Tiên nhân thưởng tiền

Vào thời nhà Tống, Hoàng Hạc lâu được mệnh danh là thiên hạ tuyệt cảnh, có di tích tu Đạo thành Tiên, tương truyền có động tiên ở gần cửa ngoài sông Hán Dương. Lục Du đã từng cùng bạn bè ngao du tới nơi này, ông đã nhìn thấy động tiên trong truyền thuyết, nằm tại bức tường đá lởm chởm và nứt nẻ, cao sừng sững mấy thước. Tiên nhân ẩn thân trong động tiên có lúc mở cửa động ra ngoài xuất du, từng có lão chiến binh nhìn thấy tiên nhân xuất du, lúc đó được tiên nhân tặng cho mấy lượng vàng, sau này số vàng này đều hóa đá.

Cưỡi hạc vàng thăng thiên

“Báo ứng lục” cũng ghi lại một câu chuyện truyền kỳ về tiên nhân cưỡi hạc vàng thăng thiên:

Trước khi xây dựng Hoàng Hạc lâu, có một quán rượu gần đó, lão chủ quán họ Tân. Một ngày nọ, một vị khách khôi ngô nhưng y phục rách rưới bước vào quán rượu và hỏi: “Có thể cho tôi uống một ly được không?” với giọng bình thản. Chủ quán Tân thấy chàng khí độ bất phàm, bèn phục vụ một ly rượu lớn. Liên tục trong sáu tháng sau đó, vị khách này luôn đến đòi đồ uống, nhưng không trả tiền, nhưng ông chủ Tân không bao giờ khinh miệt chàng ta.

Một ngày nọ, người khách nói với ông chủ Tân rằng: “Tôi nợ ông rất nhiều rượu rồi, nhưng tôi không có tiền trả cho ông.” Sau đó, chàng ta lấy ra một vỏ quýt và vẽ lên tường của quán rượu, vẽ ra một con hạc vàng. Sau đó chàng vừa gõ nhịp phách vừa hát, lúc này con hạc vàng trong bức họa trên tường đột nhiên cũng khiêu vũ uyển chuyển theo nhịp phách! Khi những vị khách khác trong quán rượu nhìn thấy cảnh tượng tuyệt vời này, họ đều tụ tập lại xem và để lại tiền thưởng.

Con hạc vàng khiêu vũ trên tường đã kiếm được rất nhiều tiền cho chủ quán họ Tân. Một ngày mười năm sau, vị khách năm xưa lại đột nhiên tới, vẫn áo quần rách rưới. Chủ quán Tân vội vàng bước tới cảm tạ: “Tiên sinh, xin hãy để tôi cung dưỡng ngài, ngài muốn sinh sống thế nào tùy ý.” Vị khách mỉm cười đáp: “Tại sao tôi đến đây vì điều này?” Chàng ta rút cây sáo ra khỏi tay và bắt đầu thổi, chỉ một lúc sau, những đám mây trắng từ trên trời hạ xuống. Lúc này, con hạc vàng trong tranh bay đến bên cạnh vị khách, vị khách cưỡi lên lưng hạc rồi bay đi. Sau đó, ông chủ Tân đã xây dựng một tòa tháp để tưởng nhớ vị khách, gọi nó là Hoàng Hạc lâu.

Những truyền thuyết này đã làm cho Hoàng Hạc lâu nổi danh là Thánh địa thành Tiên. Ngày xưa, khi hạc vàng bay đến, tháp canh thành quách trên ghềnh Hoàng Hộc cùng với các tiên nhân đắc Đạo đã cùng nhau vang danh thiên hạ. Giữa nhân sinh thiên địa, họ như ngựa trắng vượt khe, như phù vân tản khứ, tới nay nhân sự đã không còn. Thôi Hạo, một nhà thơ thời thịnh Đường đã để lại bài thơ cảm thán: “Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu!”, ý tứ là người xưa tu Đạo thành Tiên đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi, lưu lại nơi đây chỉ là Hoàng Hạc lâu trống không. Vì sao những sự tích tu Tiên sau này lại trở thành truyền thuyết thần tiên hư hư thực thực? Điều gì khiến chúng ta ngày nay càng ngày càng xa rời cảnh giới tu Tiên đắc Đạo? Nếu bạn có thể tháo bỏ xiềng xích của những quan niệm cố chấp, thì những câu chuyện thần tiên trong truyền thuyết này hẳn sẽ mang lại cho mọi người những cảm ngộ và tri thức ảo diệu và thâm khắc từ các góc độ và tầng thứ khác nhau.

Tác giả Đạp Tuyết Phi Hồng, Epoch Times, Hương Thảo biên dịch