Mặc dù vận mệnh đại đa số là đã được chủ định từ trước, nhưng không phải là không có cách nào có thể xoay chuyển…

Vào những năm đầu của hoàng đế Khang Hy nhà Thanh, tại bến đò Đông Quan ở Dương Châu, người người lên đò tấp nập. Có một chiếc đò chở quá nhiều người, khi ra đến giữa sông thì người lái đò bị trượt chân, đò bỗng nghiêng hẳn sang một bên, hơn mười người đang đứng trên đò bị rơi xuống nước. Lúc đó là mùa đông lạnh giá, mọi người mặc dù được cứu lên sau đó, nhưng đều đã chết.

Chỉ có một ông lão họ Cát đã ngoài sáu mươi tuổi, nói rằng khi ông rơi xuống sông, ông nhìn thấy dưới đáy nước sáng như ban ngày, trên sảnh đường có một viên quan đang kiểm tra số người. Khi đếm đến lão Cát, viên quan lớn tiếng nói: “Người này dương thọ còn được hai năm nữa, ông ta nên chết ở giám ngục Tô Châu, không phải chết ở đây. Mau kêu người đẩy ông ta lên bờ”. Lão Cát nghe hiểu rõ, lưu giữ trong tâm, sau đó được cứu sống.

Trong mệnh đã chủ định

Nửa năm sau, một chiếc thuyền quan đi qua Dương Châu, phái người đi tứ xứ tìm lão Cát. Họ mang lão Cát lên thuyền, chỉ nhìn thấy một viên quan trẻ tuổi, người này nói: “Bản phủ là tri phủ phủ Tô Châu, vì thời ấu niên, thái phu nhân thường nói với bản phủ, rằng chính là lão đã cẩn thận bế ẵm chăm chút bản phủ thành người, nhưng vì lão tuổi già độc thân, nên thời thời đều nhớ nhắc. Hôm nay bản phủ có một tiểu công tử mới tròn một tuổi, đặc ý đến tìm lão, thỉnh lão theo bản phủ về dinh chăm sóc cho tiểu công tử. Mỗi năm sẽ trả cho lão một khoản tiền lương hậu hĩnh, lão lấy đó để dưỡng già, vừa có thể báo đáp ân tình của lão năm đó”. Lão Cát quỳ xuống, nhất định từ chối không đi.

Quan phủ ba lần liên tục hỏi lý do không đi, lão Cát mới kể chuyện bị rơi xuống sông ở Đông Quan, phục sinh từ cõi chết, còn tường thuật chi tiết việc nghe tin mình sẽ chết trong giám ngục Tô Châu trong tương lai. Quan phủ cười nói: “Bản phủ hiện nhậm là phủ Tô Châu, hạ ngục hay không hạ ngục là do bản phủ nắm giữ, hơn nữa lão đã già rồi, không trộm cắp cũng không làm ác, sao có thể phạm pháp? Làm sao có thể hạ ngục lão đây? Những thứ này đều hoang đường, hoàn toàn không thể tin”. Đối phương lại ba lần khuyến nghị, lão Cát chỉ có thể đáp ứng, theo đó thu dọn hành trang, lên thuyền đến phủ Tô Châu. Phu nhân và thái phu nhân đều rất vui, tiểu công tử nhìn thấy lão như nhìn thấy người quen cũ, cực kỳ thân thiết, lão Cát đành lưu lại phủ nha, cẩn thận chăm nom bế ẵm tiểu công tử.

Khoảng một năm sau, thống đốc cử tri phủ phủ Tô Châu đến Giang Ninh để hội thẩm. Một ngày nọ, lão Cát đang chơi với tiểu công tử trong dinh thự, tiểu công tử muốn đi đại tiện, nên đã tụt quần ngồi xổm trên mặt đất, đột nhiên có một con chó lao ra ăn phân. Lão Cát không để ý, con chó đã nuốt trọn bìu và phân của tiểu công tử trong một đớp, tiểu công tử đau đớn chết ngay lập tức. Phu nhân khóc đến chết đi sống lại, kêu gọi gia đinh: “Đánh chết con chó lập tức. Mang lão Cát tống vào tù, đợi chủ nhân trở lại thì trừ bỏ”. Khi lão Cát đến giám ngục, nhìn lên trời mà khóc lớn: “Hai năm trước khi ở Đông Quan rơi xuống nước, ta đã biết rằng giám ngục Tô Châu là nơi ta kết thúc cuộc đời, mệnh trời đã chủ định, giờ làm sao có thể sống đây?” Theo đó, lão đã treo cổ tự sát trong ngục đêm đó.

Sau khi tri phủ trở lại phủ thự, bi thán mãi không thôi, mới biết mọi sự đều là chủ định, là do tích nghiệp từ tiền kiếp, mỗi sự việc đều có nguyên do, sức người không thể trốn thoát.

Mặc dù vận mệnh đại đa số là đã được chủ định từ trước, nhưng không phải là không có cách nào có thể xoay chuyển. Chỉ cần trong tâm khởi thiện niệm, ngày ngày hướng thiện, tinh tấn tu hành, trên đời có rất nhiều người có thể xuất kiếp mà trường thọ, và có rất nhiều người đã làm được điều đó.

Người cải biến vận mệnh

Vào những năm cuối của hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh, có một thương nhân tên là Tiền Quảng Sinh ở Tiểu Đông Môn, Dương Châu, mở một quán trà, hàng năm mua trà từ Hoắc Sơn và những nơi khác về bán cho các cửa hàng bán lẻ. Ông đối xử với người ta cực kỳ ti tiện, tích trữ được năm sáu nghìn lượng vàng, vì tướng mạo khôi ngô lực lưỡng, nên người ta gọi ông là đại phú ông.

Đương thời, có một thầy tướng gọi là “Dư quỷ nhãn”, sinh ra đã có đôi mắt màu xanh lục, đến từ Hoài Thượng (nay là Bạng Phụ, tỉnh An Huy), trụ tại chùa Đông Tinh Trung phủ Dương Châu. Ông đàm tướng luận mệnh, quyết đoán như Thần, gần xa rất nhiều người đến nhờ ông thỉnh giáo. Tiền Quảng Sinh vì tướng mạo khôi ngô, cũng mang ít tiền đến tìm ông xem tướng. Khi đến nơi ở của thầy tướng ở chùa Đông Tinh Trung, chỉ thấy một người đang xem tướng ở đó trước, hóa ra là một người bạn họ Triệu mà ông đã biết trước đây, mọi người diện kiến, hành lễ và ngồi xuống. Thầy tướng cau mày nói với người bạn họ Triệu: “Quý ông tướng sinh da đầu dày, sơn căn cao thẳng, nguyên là tướng phúc thọ, nhưng hiện tại hắc khí đã xâm nhập thiên đình, không biết ông đã làm ra việc xấu gì? Chỉ nội trong một tháng, thọ số khó thoát, sẽ chết thảm”. Người đàn ông tức giận bỏ đi.

Sau đó đến lượt Tiền Quảng Sinh tiến lên xin lời khuyên. Thầy tướng cẩn thận xem xét tướng mạo của ông rồi nói: “Quý ông thân thể đôn hậu, chuẩn đầu phong đại, cả đời tích cóp dư của cải, chỉ là nhân trung thu ngắn, hai mắt lộ thần, diện bì hư bạc. Quyết vân: ‘Diện bì hư bạc, nhân trung dài mà thọ mệnh ngắn’. Hựu vân: ‘Diện bì cấp như trống, thọ chỉ ba mươi lăm tuổi’. Thỉnh hỏi bao nhiêu tuổi rồi?” Tiền Quảng Sinh trả lời: “Năm nay chính xác là ba mươi lăm tuổi”. Thầy tướng lại nói: “Đừng trách tôi nói thẳng, tuổi thọ chỉ nội trong một trăm ngày, tất phải sớm lo liệu hậu sự.”

Tiền Quảng Sinh tặng tiền thầy tướng, về nhà với tâm trạng phiền não, thầm nghĩ: “Bạn Triệu của ta, thầy tướng nói rằng sẽ chết trong vòng một tháng. Ta còn một trăm ngày nữa, vì vậy trước tiên ta sẽ quan sát kỹ bạn Triệu xem lời phán có ứng hay không ứng”.

Nguyên lai, họ Triệu này là một thư lại ở huyện Giang Đô. Trong thời kỳ hạn hán và đói kém, ông ta phụ trách việc phân phối gạo cứu trợ theo lệnh của quan trên. Ông ta tự mình ngụy tạo ra nhiều hộ gia đình, ăn cắp 50 thạch gạo cứu trợ, vỗ béo bản thân, không ngờ quan trên phát hiện, xử tử ông ta, quả nhiên chết trong vòng một tháng. Tiền Quảng Sinh thấy Triệu mỗ đã ứng nghiệm, càng lo lắng hơn.

Một ngày nọ, Tiền Quảng Sinh đang ngồi ở sân sau của quán trà, chợt thấy một người hầu đã quá cố đến nói: “Nô tài vì bình sinh trung trực, thành hoàng tôn thần đã nhu nạp nô tài để bổ sung sai dịch, đi bắt phạm nhân xuống địa ngục. Hôm nay trong phiếu phạm nhân có bốn cái tên người, trong đó có tên của chủ nhân, xin đặc biệt đến đây để báo cáo. Tôi sẽ đến Đan Dương và những nơi khác để bắt người trước, hãy nhanh chóng xử lý việc nhà, ba ngày sau tôi tất sẽ đến, đã đến là không thể trì hoãn nữa”. Nói xong liền biến mất.

Tiền Quảng Sinh nghe rõ ràng hết thảy, mà vào giữa ban ngày, nó không thể là một giấc mộng. Ông thầm nghĩ: “Vợ chồng ân ái, khó mà chia lìa; nhi nữ còn nhỏ, chưa lập gia đình. Còn quá nhiều việc dở dang, không biết nên theo hướng nào”. Tâm rối như tơ vò, chỉ biết kêu gào khóc rống lên, âm thanh vang tới nhà hàng xóm. Lão ông ở bên cạnh đến hỏi nguyên nhân, sau đó nói: “Sinh tử đại sự, không cách nào làm gì được, thống khóc khổ não, liệu có ích gì? Nghe nói ở chùa Thiên Ninh có đại hòa thượng Cự Bột là cao tăng đắc đạo, cậu mau đến cầu ông ấy chỉ điểm, biết đâu còn có con đường sống”.

Theo lời ông lão, Tiền Quảng Sinh đến chùa Thiên Ninh, tìm gặp pháp sư Cự Bột, thuyết minh toàn bộ câu chuyện về những gì thầy tướng đã tính toán, và chuyện người hầu quá cố đã báo cáo cho mình, khóc lóc thảm thiết và quỳ xuống cầu xin chỉ điểm. Pháp sư Cự Bột nói: “Sinh tử của con người là định số, làm sao trốn thoát được?” Tiền Quảng Sinh càng khóc to hơn. Pháp sư Cự Bột nói: “Con phải tuân theo hai điều của tăng nhân, thì có thể được ông Trời bảo hộ”. Tiền Quảng Sinh trả lời: “Cái gì mà không chết, nhất định sẽ tuân tòng”. Pháp sư Cự Bột nói: “Đầu tiên, thắp hương khấn Phật phát thệ, thói độc ác bình sinh sẽ sửa thành nhân từ. Thứ hai, cần đem một nửa số tiền tích cóp được thành tiền công đức cứu tế người, chỉ giữ lại một nửa cho con cháu”.

Sau khi nghe xong, Tiền Quảng Sinh đồng ý ngay. Pháp sư Cự Bột hỏi lại: “Con đã tích cóp được bao nhiêu lượng vàng? Cần phải nói sự thật”. Tiền Quảng Sinh trả lời: “Thực tế, có hơn sáu nghìn lượng hiện kim, theo lệnh, con tình nguyện quyên góp ba ngàn lượng làm công đức”. Pháp sư Cự Bột lại nói: “Ngoài hai điều trên là lấy đức hành làm chủ, còn cần sự hỗ trợ của hai điều công phu. Cái gọi là công phu đó là: Kiên trì chính giác, nỗ lực thực hành. Kiền thành đa niệm Phật, công đức vô lượng. Do dù cực kỳ bận bịu với công việc thường nhật, thì mỗi ngày cũng đều phải kiên trì, chỉ cần không gián đoạn, phúc thọ tất nhiên đầy đủ”. Tiền Quảng Sinh tin tưởng và vui mừng tiếp thụ.

Tiền Quảng Sinh tin tưởng Phật pháp, cuối cùng đã tìm thấy con đường cải mệnh (Ảnh: Internet)

Pháp sư Cự Bột lại hỏi: “Con dùng ba ngàn vàng để làm công đức, ý tứ là làm loại công đức nào?” Tiền Quảng Sinh nói: “Đệ tử bản thân đã thấy có người xâm phạm hơn 50 thạch gạo cứu chẩn, lập tức đứt thọ chết thảm. Hiện nay đang xảy ra nạn đói lớn, giá gạo lên tới một thạch 8, 9 lượng tiền, hạt, rễ cỏ và vỏ cây đều không còn, người đói khắp nơi. Đệ tử thỉnh, nguyện dùng số tiền này mua gạo cứu chẩn, công đức này có thiết thực không?” Pháp sư Cự Bột vui mừng nói: “Dụng tâm như thế, cứu nhiều mạng dân, lập được đại đức. Nhưng con phải mua gạo ngay lập tức, tích trữ và dâng lên huyện phủ, nếu không sẽ hối hận về sau, tiền khó từ bỏ”.

Tiền Quang Sinh liền sai người mang ba ngàn lạng bạc đến nơi sản xuất gạo để mua gạo gửi vào huyện cứu đói. Pháp sư Cự Bột cũng hướng dẫn Tiền Quảng Sinh: “Bên cạnh chỗ ngồi của sư trụ trì, hãy lấy chuỗi tràng hạt của ta, hàng ngày chuyên tâm niệm Phật. Sau mười ngày trở về nhà, ắt kiếp nạn qua đi mà thọ mệnh vẫn được bảo lưu kéo dài”. Tiền Quang Sinh tuân tòng, quả nhiên không có tai họa.

Từ đó, Tiền Quảng Sinh phát tâm khoan hậu, chuyên tâm hành thiện, ngày ngày đều thành tâm trì chú không nghỉ. Sau này, ông sinh thêm ba con trai, bảy đứa cháu, hai đứa chắt và một đứa chít (cháu đời thứ năm). Con cháu cũng thể hội được hoài bão của ông nội, tâm tồn từ bi nhân hậu, trì chú không ngớt. Các con trai của ông cùng nhau hợp lực mở một cửa hàng vải lớn, làm ăn thập phần phát đạt. Hiếm nhất là vợ chồng kết tóc se tơ, Tiền Quảng Sinh thọ đến 106 tuổi, khỏe mạnh trẻ trung, tóc bạc trắng mà khuôn mặt vẫn trẻ thơ.

Khi tổ chức chúc thọ trăm tuổi của mình, chỉ thấy hàng ngàn người từ nội ngoại thành đến dự, rất đông đúc. Ông bất quá chỉ là một thương nhân, nhưng các quan lại và quý tộc lớn nhỏ trong thành phủ huyện đều đích thân đến chúc mừng ông. Thân hữu tương kiến, trống nhạc đồng tấu, mọi người hân hoan tặng ông thọ trục, thọ lễ, câu đối chữ vàng.

Sáu năm sau nữa, Tiền Quảng Sinh vẫn không một ngày đau bệnh. Một ngày, ông gọi con cháu của mình đến trước mặt, nói: “Tuổi thọ của ta chỉ nên đến ba mươi lăm tuổi. Ta đã được pháp sư Cự Bột chỉ huấn, bây giờ ta đã một trăm lẻ sáu tuổi, có thể nói là kéo dài thêm hơn bảy mươi tuổi, lại có con cháu mãn đường, lúa gạo dư dả, cảm niệm Thần tiên tổ tông bảo hựu, lại thêm bản thân chuyên ý tu thân, mới được thế này. Hôm nay sáng sớm, ta nhìn thấy người hầu quá cố ngày xưa đến nói: ‘Ngày chết đã được treo, vì có công đức, lưng chừng triệt tiêu, nay giờ Ngọ sẽ có Thần thánh Tây phương mang phướn dài lọng báu đến dẫn chủ nhân tiến về thế giới Cực Lạc, vĩnh hưởng phúc quả, không phải đến phủ Diêm Vương. Nô tài biết ơn sự rộng lượng và ân sủng của chủ nhân, biết tin tức này, đặc biệt đến đây thông báo’. Nói xong liền đi, nên ta gọi con cháu tề tựu ở đây, mọi người hay nghe ta, thường tồn thiện lương, không được vi bội”. Nói xong, ông niệm Phật vài câu, rồi nhắm mắt đoan tọa mà đi. 

Từ điểm này có thể thấy, pháp diên thọ hưởng phúc đều là từ bản thân mình duy trì, không sai chút nào. 

Theo Epoch Times
Hương Thảo biên dịch