Cây tùng là loại cây rất phổ biến, nhưng trong lòng người Á Đông, nó lại có một địa vị độc đáo, cảnh tùng xanh sừng sững trên đỉnh núi càng là một cảnh tượng vĩnh cửu trong lòng người Việt Nam và Trung Quốc. 

Từ xưa đến nay, các bậc tiên hiền và tao nhân mặc khách đã dành tình cảm đặc biệt cho cây tùng, trong quá trình diễn biến văn hóa hàng nghìn năm, đã tạo nên một nền văn hóa tùng độc đáo và sâu sắc của các dân tộc Á Đông.

Tên gọi cây tùng bắt nguồn từ tước vị

Trong văn hóa Trung Hoa, cây tùng có địa vị rất cao quý. Nó bốn mùa xanh tươi, mùa đông cũng không khô héo, vì thế được gọi là cây bất lão; tuổi thọ của nó rất dài, nên có mỹ danh là “bách mộc chi trưởng”. 

Người xưa đặt tên cho sự vật thường có hàm ý sâu xa, vì vậy địa vị của cây tùng trong lòng người xưa có thể phản ánh qua tên gọi của nó. Tước vị thời cổ đại được chia làm năm bậc: “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam”, mà Công đứng đầu. Chữ “松” (Tùng) có bộ “公” (Công), có thể thấy khi người xưa đặt tên cho cây tùng đã đặt nền móng cho địa vị cao quý của nó. Vương An Thạch thời Tống trong “Tự Thuyết” đã từng nói: “Tùng là trưởng của trăm cây, giống như Công vậy, nên chữ có bộ Công”.

Tùng bốn mùa xanh tươi, mùa đông cũng không khô héo, vì thế được gọi là cây bất lão; tuổi thọ của nó rất dài, nên có mỹ danh là “bách mộc chi trưởng”. 

Tinh thần cây tùng trở thành biểu tượng văn hóa

Cây tùng kiên cường bất khuất, không sợ giá rét, vì vậy thường được dùng để tượng trưng cho phẩm cách kiên cường bất khuất. Sự kiên trinh, thanh cao của cây tùng khi đối diện với đả kích, trước thử thách vẫn ngạo nghễ đứng thẳng, chính là biểu hiện của khí tiết trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, cũng là mục tiêu cao quý của văn nhân thời xưa. 

Hàng nghìn năm qua, các tác phẩm văn học nghệ thuật ca ngợi cây tùng không đếm xuể, cây tùng hiển nhiên đã trở thành người phát ngôn cho tâm chí của văn nhân. “Tuân Tử‧Đại Lược” có câu: “Tuế bất hàn, vô dĩ tri tùng bách, sự bất nan, vô dĩ tri quân tử” (Tạm dịch: Trong năm nếu không có mùa đông lạnh lẽo thì làm sao biết được đó là cây tùng cây bách. Nếu sự việc không khó khăn thì lấy gì để biết được đó là người quân tử), là lấy tùng để ví với quân tử. 

Khổng Tử cũng từng khen tùng: “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã”, Khổng Tử lấy việc tùng bách héo úa sau cùng để ví von rằng cuộc đời chỉ sau khi trải qua gian nan khốn khó mới có thể phân biệt được thật giả. Câu danh ngôn này của Khổng Tử đã khiến tinh thần cây tùng lưu truyền thiên cổ, và hòa quyện vào huyết mạch của văn nhân Trung Hoa, trở thành một biểu tượng văn hóa quan trọng. 

Tương truyền, Ngô Đạo Tử thời Đường thường vẽ tùng trên vách bình phong, họa sĩ Kinh Hạo thời Ngũ đại đã vẽ cổ tùng “vài vạn gốc, mới đắc kỳ chân”. Trong tranh sơn thủy Trung Quốc, cây tùng là một đề tài quan trọng không thể thiếu, có thể nói, tranh sơn thủy Trung Quốc hầu như đạt đến trình độ có núi ắt có tùng, không tùng không vẽ núi.

Tranh sơn thủy Trung Quốc hầu như đạt đến trình độ có núi ắt có tùng, không tùng không vẽ núi.

Chuyện người xưa và cây tùng

Từ xưa đến nay, những câu chuyện về người xưa và cây tùng rất nhiều, trong đó nổi tiếng nhất chắc chắn là Tô Đông Pha và Tần Thủy Hoàng. Đại văn hào Tô Đông Pha thời Tống rất yêu thích cây tùng. Thời niên thiếu, ông trồng tùng mỗi năm, trong hơn mười năm, tự tay trồng tới vài vạn gốc tùng. Khi bị biếm đến Hoàng Châu, ông trồng tùng quanh nơi ở và lấy đó làm niềm vui. Sau khi vợ là Vương Phất qua đời vì bệnh, Tô Đông Pha cũng tự tay trồng ba vạn cây tùng xanh trước mộ bà, có thể thấy mức độ yêu tùng của Tô Đông Pha.

Có lẽ bạn không biết, cây tùng còn có cây được phong tước, đằng sau đó lưu truyền một câu chuyện thú vị. Theo ghi chép trong “Sử Ký”, Tần Thủy Hoàng khi tuần du Thái Sơn thì gặp mưa gió bất ngờ, bèn tránh mưa dưới cây tùng lớn, cây tùng nhờ công hộ giá nên sau đó được phong làm “Ngũ Đại Phu”, hậu nhân vì thế gọi cây này là “Ngũ Đại Phu Tùng”.

Theo Vision Times
Thanh Ngọc biên dịch