Trùng Quang Đế không phải là người quá nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, cũng không phải là anh hùng bách chiến bách thắng mà người ta hay ca ngợi. Ông lên nắm quyền lúc nước mất nhà tan, xã tắc điêu linh nhưng vẫn kiên trì thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước bằng hết sức lực của mình…

Dẫu là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử nước Nam, là nơi duy nhất trên thế giới ba lần đánh bại quân Nguyên Mông, một triều đại rực rỡ với những danh nhân kiệt xuất… rồi cũng sẽ đến lúc suy vị. Vì ánh mặt trời ban ngày dẫu đẹp đẽ đến mấy cũng phải đến lúc hoàng hôn và chìm vào đêm tối. Nhà Trần cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau khi Hồ Quý Ly giết Nghệ Tông rồi lập nên nhà Hồ, quân Minh lấy cớ phù Trần diệt Hồ đem quân vào đánh bại cha con Quý Ly rồi chiếm nước Nam đặt thành quận huyện… Cả dân tộc chìm trong đêm dài mất nước mấy chục năm ròng.

Trong suốt đêm trường ám ảnh đó, dân Nam vốn quật cường đâu dễ chịu khuất phục. Vậy nên cũng có nhiều anh hùng cố gắng thắp lên ánh đuốc để tìm đến tự do. Trong số đó, người nổi lên ánh lửa đẹp nhất có lẽ là Trùng Quang Đế, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Trần, người đã gióng lên khúc anh hùng ca bi tráng cuối cùng của hào khí Đông A.

Tôn thất cuối cùng của nhà Trần – chứng kiến cảnh nước mất nhà tan

Trùng Quang Đế – Trần Quý Khoáng (chữ Hán: 重光帝, ? – 1414) là vị hoàng đế thứ hai được nhà Hậu Trần lập ra để chống cự sự đô hộ của nhà Minh sau năm 1407.

Ông là con của Trang Định Vương Trần Ngạc, và là cháu nội vua Trần Nghệ Tông.

Cuối đời Trần, Hồ Quý Ly được Nghệ Tông tin tưởng nên nắm hết đại quyền trong triều. Sau khi Nghệ Tông mất, năm 1399, Hồ Quý Ly giết luôn Trần Thuận Tông (chú của Trùng Quang Đế) rồi năm sau lên ngôi Hoàng đế, lập nên nhà Hồ.

Nhiều tôn thất hoàng gia chống đối Quý Ly đã bị sát hại, trong đó có thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (1391) (cha của Trùng Quang Đế).

Sử chép: “Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Trang Định vương Trần Ngạc [莊定王陳?; ? – 1392] bị giáng làm Liệt hiệu phán hầu và bị Hồ Quý Ly sai Nguyễn Nhân Liệt giết”.

Tháng 9 âm lịch năm 1406, lấy cớ khôi phục nhà Trần, Minh Thành Tổ phái 80 vạn quân do Tân Thành Hầu Trương Phụ, Tây Bình Hầu Mộc Thạnh đánh chiếm nước Việt. Hai vua Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương liên tục thua trận, đến tháng 5 (Âm lịch) năm 1407 thì đều bị bắt về Trung Quốc.

Năm 1406, Minh Thành Tổ phái 80 vạn quân đánh chiếm nước Việt. Sau đó nhà Hồ sụp đổ. (Ảnh minh họa theo ipick)

Giản Định Đế đa nghi mà làm hỏng đại sự

Ngày 2 tháng 10 Âm lịch năm 1407, con thứ Trần Nghệ Tông là Trần Ngỗi lên ngôi Hoàng đế ở Mô Độ (Ninh Bình), dựng lại nhà Trần (sử gọi là Hậu Trần) lấy hiệu là Giản Định Đế.

Các hào kiệt về theo giúp vua khá đông, trong đó có Quốc công Đặng Tất và Đồng Tri khu mật tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân. Được hai tướng họ Nguyễn, Đặng trợ giúp, Giản Định làm chủ khu vực phía nam nước Việt từ Nghệ An vào Thuận Hóa, sau đó tiến ra bắc đụng độ quân Minh một trận lớn ở bến Bô Cô (1408). Quân Giản Định thắng to, quân Minh tan tác, còn mỗi chủ tướng Mộc Thạnh chạy về cố thủ Đông Quan.

Năm 1409, do nghe lời gièm pha của Nguyễn Quỹ và Nguyễn Mộng Trang, Giản Định Đế giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung (con của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) bất bình với vua Giản Định, bèn về Nghệ An tôn Trần Quý Khoáng làm vua mới. Ở thời điểm năm 1409 Trần Quý Khoáng làm chức Nhập nội thị trung ở Nghệ An. (Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư).

Tôn Giản Định làm thượng hoàng, lên ngôi chống Minh

Ngày 17 tháng 3 Âm lịch năm 1409, Trần Quý Khoáng lên ngôi Hoàng đế ở Chi La, nay thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Tân hoàng đế đặt niên hiệu Trùng Quang (重光), phong Nguyễn Suý làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã.

Bấy giờ Giản Định Đế vẫn còn đang đóng giữ thành Ngự Thiên. Trùng Quang Đế sai Nguyễn Súy đem quân đánh úp, bắt được Giản Định Đế đem về.

Ngày 20 tháng 4 Âm lịch, Giản Định bị dẫn về Nghệ An, Trùng Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, tôn Giản Định làm Thái thượng hoàng.

Trùng Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, tôn Giản Định làm Thái thượng hoàng. (Ảnh minh họa theo vietlist)

Trùng Quang Đế, vị vua độ lượng và văn nhã

Không hồ đồ như Giản Định Đế, đang lúc chống giặc mà giết tướng tài và hay lạm sát, Trùng Quang Đế được biết đến như một vị vua sáng suốt và độ lượng.

Sử chép:

Bấy giờ Giản Định Đế đang đóng giữ thành Ngự Thiên. Trùng Quang sai Nguyễn Súy đem quân đánh úp, bắt được Giản Định. Ngày 7 tháng 4 âm lịch cùng năm, mẹ Giản Định Đế liên kết với Hành khiển Lê Triệt và Lê Nguyên Đỉnh dấy quân ở Hát Giang, định đánh úp vua Trùng Quang. Người Nghệ An là Nguyễn Trạo phát giác báo cho Trùng Quang Đế. Nhà vua giết Triệt và Đỉnh nhưng tha hết quân của họ. Đối chiếu sự kiện này với việc Giản Định giết 2 tôn thất theo Minh là Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Giao cùng hơn 500 thuộc hạ ở Diễn Châu, Nghệ An (1407), sử thần đời Lê Ngô Sĩ Liên cho rằng vua Trùng Quang có phẩm chất lãnh đạo tốt hơn Giản Định:

“Thiên hạ đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết ai là chân chúa. Thúc Dao là con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh, giữ đất, trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó hay sao? Thế là lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quân nhân nghĩa được? Xem như Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh ngầm họp quân ở Hát Giang, mưu đánh úp Trùng Quang Đế, mà Trùng Quang Đế chỉ có giết Tiệt Đế và Nguyễn Đỉnh thôi, còn đều tha cả, so với Giản Định Đế thì đằng nào hơn?”

Ngoài ra Trùng Quang Đế còn là một người khá chân thành khi đối xử với tướng sĩ và là hậu nhân vương thất quý tộc nên rất ưa chuộng văn thơ. Danh tướng Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, văn thần Nguyễn Biểu hết lòng liều chết vì ông cũng một phần nói lên điều này.

Hậu thế còn lưu lại bài thơ ông làm đầy cảm khái khi tiễn Nguyễn Biểu đi sứ như sau:

Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ

Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa,
Trịnh trọng rày nhân vẳng khúc ca.
Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ,
Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.

Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ,
Khương quế thêm cay tính tuổi già.
Việc nước một mai công ngõ vẹn,
Gác Lân danh tiếng dõi lâu xa.

Trùng Quang Đế là một người khá chân thành khi đối xử với tướng sĩ. (Ảnh minh họa theo noidung)

Bắc tiến không thành, Trương Phụ khủng bố nước Nam

Tháng 7 âm lịch năm 1409, Trùng Quang Đế cùng Thượng Hoàng chia quân hai đường đánh quân Minh. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh. Hai vua được hào kiệt các lộ ủng hộ nhiệt liệt.

Nghe tin đó, nhà Minh lại cử sang tổng binh Anh Quốc Công – Trương Phụ đeo ấn Chinh Di tướng quân đem quân cứu viện, quân Minh lại mạnh lên.

Thượng Hoàng thấy thế quân Minh mạnh liền rời thuyền chạy lên trấn Thiên Quan, Trùng Quang Đế nghi ngờ Thượng Hoàng có lòng khác, liền sai Nguyễn Súy đuổi theo không kịp. Nhưng Trương Phụ lại bắt được Thượng Hoàng – Trần Ngỗi, giải về Kim Lăng giết chết.

Tháng 8 âm lịch năm 1409, Trùng Quang Đế chống nhau với Trương Phụ ở Bình Than.

Nhà vua sai Đặng Dung trấn giữ cửa Hàm Tử. Quân Việt thiếu lương thực trầm trọng, Đặng Dung bèn chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho binh lính. Trương Phụ  thấy nhân quân Việt đang yếu, liền đem thủy quân đánh vào cửa Hàm Tử. Đặng Dung thua to.

Trùng Quang Đế nghe tin, tự liệu chống không nổi, bèn dẫn quân lui về Nghệ An.

Trương Phụ đuổi theo, đến đâu cũng chém giết người vô số để thực hiện chính sách khủng bố tinh thần người Việt:

Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ, hoặc nướng đốt làm trò, thậm chí có đứa mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả“. (Trích Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Ngoài ra thì nhà Minh còn chiêu dụ các thổ quan Đại Việt bằng cách cấp bằng ghi công trạng cho họ để đi đánh dẹp quân khởi nghĩa người Việt. Vì vậy có một bộ phận người Việt là thổ quan, hàng tướng, cùng với những người đã từng tiếp tay cho người Minh diệt nhà Hồ, nay lại tiếp tay cho nhà Minh đàn áp cuộc khởi nghĩa của Trùng Quang Đế. Điều này khiến cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn và tổn thất.

(Còn tiếp)

Tĩnh Thủy