Câu chuyện đầu tiên của chúng ta hôm nay xảy ra cách đây 1000 năm, tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ. Ngày hôm đó, trong làng xảy ra một chuyện lớn. Một đứa trẻ đã qua đời ba ngày, vậy mà lại… sống lại! Đứa trẻ này là con trai của một cặp vợ chồng Bà-la-môn trong làng, mới 13 tuổi, mấy ngày trước không may mắc bệnh cấp tính mà qua đời. Theo phong tục địa phương, sau khi mất ba ngày, dân làng sẽ tổ chức nghi thức thiên táng cho cậu bé.

Trời vừa hửng sáng, dân làng đã khiêng cậu bé lên đài thiên táng. Bỗng nhiên, một con chim bồ câu từ xa bay tới, lao thẳng vào bên cạnh đứa trẻ rồi nằm chết trên mặt đất. Cùng lúc đó, cậu thiếu niên mở mắt và ngồi dậy.

A? Cương thi sống lại?! Dân làng sợ hãi hét lên thất thanh, chạy tán loạn khắp nơi.

“Mọi người đừng sợ, đừng sợ!” Đứa trẻ đứng dậy, lớn tiếng gọi: “Tôi không phải ma, thật sự không phải, tôi là người, là người mà, tôi sống lại rồi!”

Dân làng nghe vậy đều dừng lại, quay đầu nhìn cậu bé. Có người gan dạ hơn tiến lại sờ tay cậu, tay vẫn còn ấm, sờ lên ngực thì thấy tim vẫn đập. Nhìn lại khuôn mặt cậu bé, hồng hào, sắc mặt rất tốt, rõ ràng là một đứa trẻ khỏe mạnh, bình thường! Chẳng lẽ, đứa trẻ thật sự đã cải tử hoàn sinh? Chuyện này thật quá hiếm thấy. Dân làng từ từ vây quanh, ai cũng muốn nhìn xem.

Đứa trẻ thấy mọi người không còn sợ nữa, bèn mỉm cười nói: “Chúng ta về nhà thôi.”

Mọi người vui mừng đưa cậu về nhà, ai nấy đều nói: “Cái đài thiên táng này, hóa ra lại là một nơi chữa bệnh tốt!”

Cậu bé về nhà, cha mẹ cậu vui mừng đến ngất đi. Nhưng rất nhanh, họ phát hiện ra đứa trẻ đã hoàn toàn thay đổi. Sau khi chết đi sống lại, tính cách của cậu bé đã hoàn toàn khác trước. Cậu trở nên hiền lành hơn, rất hiếu thảo với cha mẹ, nhân từ với người nghèo, và đặc biệt, cậu bắt đầu có hứng thú sâu sắc với Phật Pháp. Bạn bè cũ rủ đi chơi, cậu đều không đi, chỉ ở nhà một mình yên lặng đọc kinh Phật.

Thời gian trôi qua, cha mẹ cậu luôn cảm thấy đứa con trai tưởng mất mà được này, dường như là con của nhà khác. Một hôm, người cha không thể kìm nén được nữa, bèn hỏi cậu: “Con rốt cuộc là ai?”

Đứa trẻ nói: “Thực không dám giấu, con không phải là con trai của hai vị. Tên con là Damema, là một người tu hành ở Tây Tạng, đã qua đời cách đây không lâu. Linh hồn của con đã mượn thân xác của con chim bồ câu kia, bay đến bên cạnh con trai của hai vị, chuyển sang thân thể của cậu ấy và sống lại nhờ thân xác này.”

Phép đoạt xá của Mật Tông

Hóa ra Damema là con trai của Đại Tông sư Marpa thuộc phái Bạch giáo (Kagyu), một trong bốn tông phái lớn của Phật giáo Tây Tạng. Bạch giáo chính là do Marpa và đệ tử của ông là Milarepa cùng nhau sáng lập. Milarepa là vị Đại Tông sư mang màu sắc huyền thoại nhất trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, nổi tiếng với việc khổ tu. Ông đã dành nửa đời người để tu thành Phật, được xem là hình mẫu tu hành trong Phật giáo Tây Tạng. 

Quay lại câu chuyện, ngày hôm đó, Damema bị ngã ngựa, tay, chân và các cơ quan nội tạng trong cơ thể đều bị tổn thương nặng, xem ra không qua khỏi.

Nhà Phật có câu, thân người khó được, nghĩa là trong lục đạo luân hồi, có thể chuyển sinh thành người, lại có cơ hội tu Phật Pháp, là vô cùng hiếm có. Người như Milarepa có thể tu thành trong một đời có thể nói là độc nhất vô nhị. Nhiều người tu luyện trải qua mấy kiếp luân hồi, thậm chí mấy chục kiếp luân hồi cũng chưa chắc đã tu thành. Mà mỗi lần luân hồi đều có thể trở lại làm người thì lại càng ít ỏi.

Vì vậy, nếu lần này Damema chết đi, việc trở lại làm người để tiếp tục tu hành sẽ rất khó khăn. Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề này?

Bạch giáo có một pháp môn tu luyện bí mật, gọi là Đoạt Xá pháp, tương tự như phép “mượn xác hoàn hồn” của Đạo gia, tức là mượn thân xác của người khác để sống lại. Marpa bèn nói, hay là chúng ta thử Đoạt Xá pháp đi, và ra lệnh cho các đệ tử đi khắp nơi tìm xem có ai vừa mới qua đời không. Nhưng các đệ tử của Marpa tìm kiếm khắp nơi, thứ có thể dùng được chỉ có một con chim bồ câu vừa mới chết.

Marpa suy nghĩ một lúc rồi nói, vậy cũng được, chúng ta thử xem sao, rồi bảo các đệ tử đặt con chim bồ câu bên cạnh Damema. Tiếp theo, kỳ tích đã xuất hiện. Chỉ thấy Damema từ từ nhắm mắt lại, và rất nhanh đã không còn hơi thở. Còn con chim bồ câu vốn đã chết, lại nhanh chóng đứng dậy, vỗ cánh bay ba vòng quanh Marpa và vợ ông. Con chim vừa bay vừa gật đầu, như thể đang cúi đầu lạy hai người.

Các đệ tử xung quanh đều chết lặng. Họ biết rằng, linh hồn trú ngụ trong thân xác con chim bồ câu lúc này đã là Damema.

Marpa ngồi xuống nhập định, xem xét tương lai của Damema, phát hiện ra rằng nửa đời sau của cậu sẽ trải qua ở Ấn Độ. Sau khi xuất định, Marpa nói với con chim bồ câu: “Con trai, con hãy đi dọc theo sườn núi bên phải, cứ đi mãi, đi mãi, đến cuối con đường, con sẽ đến một ngôi làng nhỏ. Trên đài thiên táng của ngôi làng đó, con sẽ thấy một đứa trẻ Bà-la-môn Ấn Độ 13 tuổi, cậu bé đó, chính là tương lai của con.”

Con chim bồ câu ngoan ngoãn bay đi. Và sau đó, chính là cảnh tượng đã được đề cập ở đầu câu chuyện. Damema đã chuyển ý thức của mình từ thân xác con chim bồ câu sang thân xác của đứa trẻ đó và sống lại thành công.

Sau khi nghe Damema kể xong, cặp vợ chồng người Ấn Độ vô cùng kinh ngạc. Họ không còn xem cậu như con của mình nữa, mà kính trọng cậu như bậc trưởng bối. Damema sau khi có được thân thể mới này đã vô cùng trân trọng, ở nhà tinh tấn tu tập Phật Pháp, lớn lên thì xuất gia tu hành, sau này đã đạt được thành tựu lớn tại Ấn Độ.

Câu chuyện kỳ diệu này được học giả nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng, Khenpo Tsultrim Lodro, kể lại và được ghi lại trong một cuốn sách của ông có tên là ‘Chân tướng của Sinh mệnh’.

Thực ra ở Trung Hoa cũng có một câu chuyện kỳ diệu tương tự, đó là câu chuyện Thiết Quải Lý tá thi hoàn hồn.

Thiết Quải Lý mượn xác hoàn hồn

Trong ấn tượng của mọi người, có phải Thiết Quải Lý là hình ảnh một người lôi thôi, luôn đi khập khiễng? Thực ra trước đây, ông là một mỹ nam tử chính hiệu, tên cũng không phải là Thiết Quải Lý, mà là Lý Huyền.

Lý Huyền sống ở động Bích Hà trên núi Thái Sơn, bên cạnh có một tiểu đệ tử tên là Dương Nhân.

Hôm đó, Lý Huyền chuẩn bị xuất du, nói với Dương Nhân: “Ta đã học được thuật hồn du từ Thái Thượng Lão Quân, có thể xuất hồn ra khỏi thể xác. Ta sẽ đi hồn du vài ngày, con ở đây canh giữ thân xác của ta. Nếu đến ngày thứ bảy mà ta vẫn chưa tỉnh lại, nghĩa là tiên thuật của ta đã luyện thành, thân xác này không còn tác dụng gì nữa, con hãy nhanh chóng thiêu nó đi, đừng chần chừ một khắc nào, nếu không ta quay về vẫn phải nhập vào thân thể này, sau này lúc phi thăng lại phải thoát ra nữa thì rất phiền phức. Nhưng nếu tiên thuật của ta chưa luyện thành, trong vòng 7 ngày ta sẽ quay về, lúc đó vẫn phải dùng thân thể này. Con tuyệt đối đừng thiêu ta đi, nếu không, hồn phách của sư phụ sẽ không có nơi nương tựa, dần dần sẽ hồn bay phách tán, lúc đó đừng nói là tu tiên, ngay cả tính mạng cũng khó giữ. Hãy ghi nhớ, ghi nhớ!”

Dương Nhân nói: “Vâng, vâng ạ, sư phụ cứ yên tâm đi, đệ tử ở đây trông coi cho người.”

Cứ như vậy, Lý Huyền xuất hồn đi du ngoạn, để độ cho Hà Tiên Cô.

Trong động Bích Hà, Dương Nhân canh giữ thân xác của Lý Huyền, yên tĩnh trải qua 6 ngày.

Trưa ngày thứ sáu, một người đồng hương của Dương Nhân đột nhiên xông vào động, vô cùng lo lắng nói với cậu: “Cậu mau về nhà xem đi, mẹ già của cậu sắp không qua khỏi rồi.” Dương Nhân vốn rất hiếu thảo, nghe vậy cũng vô cùng lo lắng.

Nhưng thời hạn 7 ngày chỉ còn lại nửa ngày, phải làm sao đây? Mình nên về, hay không về? Thân xác của sư phụ, nên thiêu, hay không thiêu?

Người đồng hương nói: “Cậu ngốc quá, làm gì có ai hồn lìa khỏi xác 6 ngày mà còn trở về được. Không tin cậu sờ xem, sư phụ cậu có phải đã lạnh ngắt rồi không? Mẹ già của cậu sắp trút hơi thở cuối cùng rồi, sao cậu có thể chỉ lo cho sư phụ mà không nghĩ đến người mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình?”

Dương Nhân sờ thử, Lý Huyền nằm trên giường quả nhiên lạnh như băng, không còn một chút dấu hiệu của sự sống. Người đồng hương nói tiếp: “Sư phụ cậu đạo thuật cao cường, chắc chắn đã tu thành thần tiên, thân xác này chắc chắn là không cần nữa rồi, hay là cậu thiêu ông ấy sớm một chút, rồi về nhà thăm mẹ.”

Dương Nhân bị người đồng hương nói cho tâm trí rối bời, không kịp suy nghĩ kỹ, vội vàng thiêu xác Lý Huyền rồi tức tốc chạy về nhà.

Không ngờ, lúc hoàng hôn, Lý Huyền đã trở về. Quay về nhìn, không ổn rồi, thân xác đã biến mất, tiểu đệ tử cũng không thấy đâu. Bấm ngón tay tính toán, ông liền biết rõ nguyên do. Nhưng ông cũng không trách đệ tử. Trong trăm điều thiện, hiếu đứng đầu mà, có trách thì chỉ trách bản thân, lại chọn đúng lúc này để thi triển tiên thuật. Giờ thì hay rồi, không chỉ bản thân có nguy cơ mất mạng, mà còn liên lụy đến đệ tử.

Thôi bỏ đi, sống chết có số. Hay là buông bỏ tất cả, đến nhà đệ tử xem sao trước, biết đâu còn cứu được mẹ của Dương Nhân, cũng coi như là trọn vẹn tấm lòng hiếu thảo của đệ tử.

Đúng lúc Lý Huyền đang cưỡi mây lành, định đến nhà họ Dương, thì sư huynh của ông, đại thần tiên Văn Thủy Chân Nhân, xuất hiện.

Văn Thủy Chân Nhân lớn tiếng nói: “Sư đệ khoan đi đã, tâm địa của đệ lương thiện như vậy, ta không giúp đệ, thực sự không đành lòng. Lại đây, lại đây, ta đã tìm cho đệ một người thay thế, đệ có thể mượn thân xác của ông ta để sống lại.” Nói rồi, liền kéo Lý Huyền bay đến bên một gốc cây lớn.

Chỉ thấy dưới gốc cây có một ông lão ăn mày đã chết. Văn Thủy Chân Nhân nói: “Chính là ông ta đấy, đệ tự mình qua xem đi.”

Lý Huyền lại gần nhìn, ông lão ăn mày này lôi thôi lếch thếch, vừa đen vừa xấu, hai chân lại còn một dài một ngắn.

Cái này… thật sự là quá xấu. “Sư huynh… có thể đổi người khác được không ạ?” Lý Huyền dùng ánh mắt cầu khẩn nhìn Văn Thủy Chân Nhân.

Văn Thủy Chân Nhân cười lớn, nói: “Là thần tiên rồi, còn chấp trước vào tướng mạo sao?”

“Đệ có biết không? Đừng thấy ông lão ăn mày này vừa già vừa xấu, kiếp trước ông ta đã cứu mạng đệ đấy. Kiếp này đệ dùng thân xác của ông ta, ông ta cũng nhờ đệ mà được trường sinh, đây cũng coi như là báo đáp ông ta rồi. Nhìn xem, cây gậy trong tay ta đây, là được bẻ từ cành đào trong vườn của Vương Mẫu Nương Nương. Đây là một thần khí trăm năm khó gặp, nào, cho đệ dùng làm gậy chống nhé.”

Lý Huyền nghe ông nói vậy, lập tức gỡ bỏ được khúc mắc trong lòng, yên tâm nhập vào thân xác của người ăn mày. Từ đó về sau, mỹ nam tử Lý Huyền đã trở thành Thiết Quải Lý.

Đây có phải cũng là một câu chuyện thú vị không? Tuy nhiên, trong cuốn sách ‘Sự thật của sinh mệnh’ của Khenpo Tsultrim Lodro, còn có những câu chuyện huyền thoại ở Tây Tạng còn gây chấn động hơn, như người không đầu, bạch nhật phi thăng, hồng hóa, v.v. Các bạn có muốn nghe không? Chúng ta hãy nói về người không đầu trước.

Người không đầu

Trong Sơn Hải Kinh có một người khổng lồ tên là “Hình Thiên”, là thuộc hạ của Viêm Đế. Sau khi Viêm Đế thua Hoàng Đế trong trận Phản Tuyền, đã quy thuận Hoàng Đế. Hình Thiên không phục, tay cầm búa lớn, khiên, tìm Hoàng Đế quyết đấu.

Sau khi Viêm Đế thua Hoàng Đế, ông đến phương Nam định cư, Hình Thiên cũng theo Viêm Đế đến đó. Sau này, trong bộ tộc Thần Nông của Viêm Đế, thủ lĩnh họ Khương là Xi Vưu lại khởi binh tạo phản, Hình Thiên vốn cũng muốn theo Xi Vưu đi, nhưng cuối cùng bị Viêm Đế khuyên can. Cuối cùng, Xi Vưu tạo phản thất bại, cả bộ tộc Xi Vưu đều bị Hoàng Đế tiêu diệt. Hình Thiên biết tin, trong cơn tức giận đã cầm búa lớn, khiên, xông đến Nam Thiên Môn của Thiên đình, chỉ đích danh muốn quyết đấu với Hoàng Đế.

Nhưng Hoàng Đế là ai chứ? Cả Viêm Đế, Xi Vưu đều bại dưới tay ông. Hình Thiên tuy cao lớn, nhưng làm sao có thể là đối thủ của Hoàng Đế? Chưa đầy hai hiệp, Hình Thiên đã bị Hoàng Đế dùng kiếm Hiên Viên chém đứt đầu. Để Hình Thiên không thể sống lại, Hoàng Đế đã chôn đầu của ông ta ở núi Thường Dương.

Tuy nhiên, Hình Thiên không có đầu, vậy mà vẫn sống sót. Ông vẫn không chịu thua, lấy hai đầu vú làm mắt, lấy rốn làm miệng; tay trái cầm khiên, tay phải cầm búa, hướng lên trời mà chém loạn xạ. Đây chính là hình tượng của Hình Thiên trong Sơn Hải Kinh.

Ngàn năm qua, mọi người đều cho rằng, đó chẳng qua chỉ là một thần thoại. Người bị chém đầu rồi, làm sao có thể sống sót được?

Tuy nhiên, trong bí truyền của Đạt Lai Lạt Ma thứ sáu, Tsangyang Gyatso, lại ghi lại một trường hợp người không đầu.

Tsangyang Gyatso sống vào thời Khang Hy. Có một lần ông từ Lhasa đến Lithang, nghỉ chân tại một gia đình, và tại đây ông đã nhìn thấy một người không đầu. Người nhà ông ta nói rằng, người này trước đây mắc bệnh thoái hóa đốt sống cổ, sau đó đầu bị đứt lìa, nhưng ông ta vẫn sống, đã sống được ba năm rồi.

Không có đầu, không nhìn thấy, không nghe được, cũng không nói được, vậy ông ta giao tiếp với người khác như thế nào?

Một lúc sau, chỉ thấy người không đầu này bắt đầu dùng tay đấm vào ngực. Tsangyang Gyatso hỏi người nhà của ông ta: “Ông ấy muốn làm gì vậy?”

Người nhà trả lời rằng, ông ấy đói, muốn ăn. Người không đầu này tuy không còn đầu, nhưng trên cổ vẫn còn hai ống dẫn, người nhà bèn dùng chai đổ súp tsampa theo đường ống xuống. Người đó ăn rất chậm, ống dẫn rất hẹp, súp phải đổ từ từ từng chút một thì ông mới uống được.

Tsangyang Gyatso nhìn người không đầu, lòng sinh thương cảm, thầm nghĩ, nghiệp lực luân hồi của chúng sinh thật không thể nghĩ bàn. Người không có đầu mà vẫn có thể sống được.

Ở Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma là vua cả về chính trị và tôn giáo, địa vị vô cùng tôn quý. Khenpo Tsultrim Lodro bình luận rằng, Tsangyang Gyatso với thân phận Đạt Lai, hoàn toàn không có lý do gì để nói dối. Vì vậy, loại người không đầu này, có lẽ là có thật.

Điều thú vị là, Kỷ Hiểu Lam (Kỷ Quân), một đại tài tử thời Càn Long, người chịu trách nhiệm biên soạn Tứ khố toàn thư và sau này làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư, cũng đã kể một câu chuyện về người không đầu, được ghi lại trong cuốn Duyệt vi thảo đường bút ký của ông.

Ông nói rằng, hôm đó ông kể cho ông cụ trong nhà nghe câu chuyện về Hình Thiên, ông cụ nói: “Con đừng cho rằng những ghi chép cổ xưa là hoang đường, chuyện này là có thật đó.”

Trước đây có một vị vương gia Mông Cổ đi săn trong núi sâu, thấy một con hươu bị trúng tên đang chạy trốn, bèn nhân cơ hội bắn chết con hươu đó. Khi tùy tùng của ông định khiêng con hươu đi, bỗng có một người cưỡi ngựa phi như bay tới, đến gần thì thấy, người trên ngựa có mắt mọc ở ngực, miệng mọc ở rốn, giống hệt Hình Thiên trong truyền thuyết.

Khi người đó nói chuyện, âm thanh như được ép ra từ rốn, kêu chít chít, không hiểu anh ta nói gì. Nhìn cử chỉ tay của anh ta, có lẽ ý là, con hươu đó là do anh ta bắn trúng trước, phải để anh ta mang đi. Tùy tùng đều sợ đến không dám nói gì. May mà vị vương gia gan lớn, ra hiệu với người đó rằng: “Nhưng anh đâu có bắn chết nó, là ta bắn thêm một mũi tên nữa nó mới chết, mỗi người một nửa mới công bằng.” Người không đầu vậy mà hiểu được ý của ông, cuối cùng mang đi nửa con hươu.

Ông cụ nói: “Người không đầu này, không lẽ là hậu duệ của Hình Thiên chăng?”

Kỷ Hiểu Lam sau khi kể xong câu chuyện này, đã vô cùng cảm khái nói: “Trời đất rộng lớn, không có gì là không thể có, các nhà nho thường quá câu nệ vào những gì mình thấy và nghe.” 

Trên thực tế, không chỉ ở Trung Quốc, người không đầu cũng đã xuất hiện ở châu Âu, châu Phi và cả Ấn Độ. Các bạn có muốn nghe thêm những câu chuyện về người không đầu không? Hãy để lại bình luận cho chúng tôi biết nhé.

Tiếp theo, hãy để tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện về bạch nhật phi thăng.

Bạch nhật phi thăng

Sự kiện này Khenpo Tsultrim Lodro không tận mắt chứng kiến, nhưng ông nói rằng ông đã phỏng vấn không ít nhân chứng, cũng đã tiến hành rất nhiều điều tra, và ông tin rằng đây là một sự kiện có thật.

Câu chuyện xảy ra vào tháng 9 năm 1958, tại huyện Đồng Đức, châu Hoàng Nam, tỉnh Thanh Hải. Nhân vật chính của câu chuyện là một vị cao tăng của phái Nyingma thuộc Phật giáo Tây Tạng tên là Tsewang Rigzin.

Tsewang Rigzin sinh năm 1883 tại huyện Hồng Nguyên, tỉnh Tứ Xuyên, bắt đầu học Phật Pháp từ năm 10 tuổi, xuất gia năm 15 tuổi, và từ sau 30 tuổi ông luôn khổ tu trên núi. Những người biết ông đều nói ông uyên bác, trí tuệ phi thường.

Không lâu trước khi ông bạch nhật phi thăng, cơ thể ông trông rất yếu, đi lại khó khăn, ra ngoài đều cần người cõng.

Tuy nhiên, tiểu đệ tử chăm sóc ông đã phát hiện ra những hiện tượng lạ. Khi giúp Tsewang Rigzin thắt dây lưng, chỉ cần dùng một chút lực, dây lưng sẽ xuyên qua cơ thể, như thể cơ thể này đã không còn tồn tại. Tsewang Rigzin thậm chí còn có thể từ trong phòng khóa cửa, xuyên ra ngoài phơi nắng. Tiểu đệ tử không biết ông ra ngoài bằng cách nào, chỉ biết cửa vẫn khóa, nhưng người đã ở bên ngoài.

Tiểu đệ tử kể lại với mọi người xung quanh, ai nấy đều kinh ngạc. Bởi vì hiện tượng này được gọi là thân cầu vồng (hồng quang thân), cũng chính là ‘thân thể kim cương bất hoại’ trong truyền thuyết. Khi đạt đến cảnh giới này, cơ thể dưới ánh đèn sẽ không để lại bóng.

Năm 1958 đúng vào thời kỳ chống cánh hữu, Tsewang Rigzin cũng bị liên lụy. Một ngày tháng 9, ông bị đưa đi đấu tố. Khi những người áp giải ông sắp đưa ông đến nơi đấu tố, một cơn lốc xoáy vô cùng dữ dội đột nhiên nổi lên, mạnh đến mức người ta không thể mở mắt. Khi cơn lốc qua đi, mấy người định thần nhìn lại, Tsewang Rigzin vốn đang ngồi trên lưng bò đã biến mất không dấu vết.

Một quan chức chính phủ có mặt lúc đó nói rằng, trên trời đột nhiên xuất hiện rất nhiều đám mây ngũ sắc, những đám mây này vậy mà đã cuốn vị lạt ma đó đi! Một cậu bé chăn bò trên sườn núi cũng nói rằng, cậu nhìn thấy một nhà sư bay lên trời từ phía sau núi. Ban đầu bay lên từ từ, sau đó xuyên qua tầng mây và biến mất. Sau này, trong hồ sơ của Tsewang Rigzin, chỉ ghi đơn giản hai chữ “mất tích”.

Khenpo Tsultrim Lodro nhận xét rằng, việc phi thăng, theo quan điểm của Phật giáo Tây Tạng thực ra rất dễ dàng. Bởi vì Mật tông Tây Tạng cho rằng, mỗi người đều có ba loại thân thể – thô thân, tế thân và cực tế thân. Chỉ cần có thể phát triển được công năng của tế thân, con người có thể tự do bay lượn giữa trời đất. Vì vậy, đối với những người tu hành của Phật giáo Tây Tạng, việc có thể bay không phải là điều hiếm lạ.

Tuy nhiên, đối với người tu hành của Phật giáo Tây Tạng, cách rời khỏi thế gian tốt nhất vẫn là “hồng hóa”.

Hồng hóa

Nói chung, khi hồng hóa, người tu hành sẽ ngồi xếp bằng nhập định, lúc này, phía trên đỉnh đầu của họ sẽ xuất hiện một vùng ánh sáng đỏ, cơ thể bắt đầu phát quang. Cùng lúc phát quang, thân thể sẽ không ngừng thu nhỏ, thu nhỏ, thu nhỏ, cuối cùng sẽ hoàn toàn biến mất.

Nếu tu vi kém hơn một chút, sẽ để lại một ít móng tay và tóc; kém hơn nữa, sẽ để lại một cơ thể thu nhỏ lại rất nhiều, cơ thể này sẽ trở nên cứng như sắt.

Năm 1952, Tư lệnh Quân khu Tây Tạng Trương Quốc Hoa đã tận mắt chứng kiến quá trình hồng hóa của một vị cao tăng. Chỉ thấy vị cao tăng đó đầu tiên từ trên ghế bay lên không trung, sau khi bay lên lại hạ xuống, khi bay lên lần nữa, xuất hiện một tiếng nổ lớn, sau tiếng nổ, một đám mây đỏ bốc lên, vị cao tăng biến mất giữa không trung, không để lại bất kỳ dấu vết nào.

Trong sách của Khenpo Tsultrim Lodro cũng giới thiệu quá trình hồng hóa của một vị cao tăng khác, không hoàn toàn giống với những gì Trương Quốc Hoa đã thấy.

Vị cao tăng tên là Khenpo Achö, sinh vào tháng 8 năm 1818, xuất gia tu hành từ năm 10 tuổi. Ông qua đời vào ngày 29 tháng 8 năm 1998. Trước khi qua đời, hai bên thiền phòng của ông đã xuất hiện những dải ánh sáng ngũ sắc, đẹp như cầu vồng. Trong phòng còn vang lên những giai điệu tuyệt vời, như tiếng ngâm nga khe khẽ của người con gái, âm thanh du dương uyển chuyển.

Sau khi qua đời, cơ thể của ông mỗi ngày đều thu nhỏ lại một cách rõ rệt, đến ngày thứ tám thì hoàn toàn biến mất. Thân quyến và các đệ tử của ông kéo áo cà sa của ông ra xem, trên giường không có gì cả, trống không.

Người dân địa phương nói rằng, mấy ngày đó, họ đều nhìn thấy những cầu vồng tuyệt đẹp trên bầu trời.

Khenpo Tsultrim Lodro nói rằng, mặc dù bản thân ông lúc đó không có mặt, nhưng những người ông phỏng vấn đều là những người chất phác, lương thiện, không có bất kỳ lý do gì để lừa dối ông. Ông tin rằng đây là một sự kiện hồng hóa có thật.

Theo Epoch Times