Có câu nói “Nếu không muốn người khác biết, trừ phi mình đừng làm”, một lời răn dạy sâu sắc và được lòng người xưa nay. Vậy, nếu một ý nghĩ chỉ xuất hiện trong tâm mà chưa làm, hoặc chưa kịp làm, thì liệu có bị biết không? Nếu có, thì làm sao biết được? Ở không gian khác, có hai tấm gương là Tâm Kính và Nghiệp Kính đang phát huy tác dụng. Còn gì nữa không?

Lời cảnh báo từ mảnh ngói bay từ trên trời xuống

Vào thời nhà Thanh, có một vị dịch sứ (người đưa tin công vụ) được cử đến Đài Loan làm việc. Trên đường đi, ông nghỉ đêm tại một dịch trạm. Một đêm nọ, khi đang ở trong phòng trọ và chuẩn bị đi ngủ, ông chợt thoáng thấy một người phụ nữ xinh đẹp lén trèo lên tường, nhòm vào phòng mình. Vị dịch sứ quát lớn: “Yêu vật từ đâu đến!” Người phụ nữ đó liền biến mất không một dấu vết.

Vị dịch sứ cảm thấy mình thật oai phong lẫm liệt, rồi trở mình ngủ thiếp đi. Ai ngờ nửa đêm, ông đột nhiên giật mình tỉnh giấc, thấy một mảnh ngói không biết từ đâu đã rơi xuống cạnh gối. Ông tức giận, ngồi bật dậy, hét ra ngoài cửa sổ: “Yêu quái nào to gan thế, dám phạm đến đường đường là sai quan của triều đình!”

Bên ngoài cửa sổ vọng lại giọng nói lí lắc của một người phụ nữ:

“Ấy da, đại nhân, ngài là bậc quý nhân phúc lớn mạng lớn, tôi trốn ngài còn không kịp, nào dám mạo phạm? Canh một bị ngài quát một tiếng, tiểu nữ tôi sợ đến hồn bay phách tán, sợ phạm phải luật trời! Chỉ là… thưa đại nhân, trong giấc ngủ, ngài đã nảy sinh tâm tư tà vạy, xem tôi là con gái của người lính ở dịch trạm, còn toan tính sau này nạp tôi làm tiểu thiếp. Lòng người một khi lệch lạc, quỷ thần lập tức biết ngay. Ý nghĩ xấu xa đó vốn sẽ chiêu mời tà ma, đừng trách tôi tặng ngài một mảnh ngói, xem như là lời nhắc nhở đại nhân nên thu liễm lại. Ngài tức giận làm gì chứ?”

Giọng nói vừa dứt, dịch trạm lại trở về vẻ tĩnh lặng. Nhưng vị dịch sứ thì mặt đỏ bừng, xấu hổ đến mức muốn chui xuống đất. Ông hoảng hốt thu dọn hành lý, bỏ đi ngay trong đêm, không dám ở lại thêm nữa.

Nghiệp Kính và Tâm Kính

Có một người học giả ban đêm đi ngang qua miếu thờ Nhạc Thần, bỗng thấy một người bước ra từ cánh cửa son đang đóng chặt. Người học giả biết đó là thần minh, vội vàng cúi lạy và gọi là “Thượng Thánh”. Vị kia đỡ ông dậy và nói: “Ta không phải là thần linh cao quý, chỉ là quan Tư Kính ở đài bên phải, phụng mệnh mang sổ sách đến đây.”

Người học giả hỏi: “‘Tư Kính’ là ý gì, có phải là trông coi Nghiệp Kính không ạ?”

Quan Tư Kính đáp:

“Đại khái là vậy, nhưng không chỉ dừng ở đó mà còn có những tầng sâu hơn. Mọi hành vi thiện và ác trong suốt cuộc đời của mỗi người đều có thể phản chiếu trong Nghiệp Kính. Tuy nhiên, những ý nghĩ thầm kín trong lòng người lại vô cùng phức tạp và hay thay đổi, lúc có lúc không, ẩn giấu rất kín đáo, bề ngoài không thể thấy được dấu vết. Bề ngoài có vẻ đoan trang, cao nhã, nhưng nội tâm lại có thể ngấm ngầm chứa đựng tà niệm hoặc ý đồ bất chính, khi chưa biểu hiện ra thì Nghiệp Kính cũng khó mà nhìn thấu ngay được.”

“Từ thời Nam-Bắc Tống trở đi, lòng người ngày càng giỏi ngụy trang, thậm chí có người cả đời hành sự không hề để lộ sơ hở. Vì vậy, các vị thần trên trời đã bàn định: dời Nghiệp Kính sang đài bên trái, chuyên soi chiếu ‘chân tiểu nhân’; đồng thời lập thêm Tâm Kính ở đài bên phải, chuyên soi chiếu ‘ngụy quân tử’. Dưới sự soi chiếu của hai tấm gương này, tình cảm thiện ác, chân giả của con người đều hiện ra rõ mồn một, không thể che giấu.”

Quan Tư Kính mô tả trạng thái nội tâm của một số “ngụy quân tử” và “chân tiểu nhân” như sau:

“Có người tâm tư cố chấp, bướng bỉnh, lệch lạc, chính là cong queo không ngay thẳng; Có người thì một mảng đen kịt, như bị bôi sơn đen, không thấy một tia sáng; Có người ý nghĩ cong queo, không ngay thẳng, giống như lưỡi câu; Có người tâm linh hỗn loạn, bẩn thỉu, như một đống phân bùn; Có người tâm cơ quá sâu, thành phủ lớp lớp khóa chặt; Có người tư tưởng quấn quýt, như dây leo chằng chịt; Có người đầy địch ý, như gai góc, hoặc như đao kiếm sắc lạnh; Có người mang tâm địa độc ác, như nọc độc của ong bọ cạp, hoặc như nanh vuốt của hổ sói; Có những tâm cầu danh vọng thì hiện ra hình ảnh mũ áo quan lại, xe ngựa lọng che; Lại có những tâm cầu lợi lộc thì toát ra khí của vàng bạc châu báu; Thế nhưng nhìn vẻ ngoài của họ, ai nấy đều ngồi nghiêm chỉnh, ra vẻ đạo mạo. Còn trong Tâm Kính soi thấy những người có tâm quang tròn đầy như ngọc, trong suốt như pha lê thì trong nghìn trăm người khó được một hai.”

Quan Tư Kính lại nói:

“Ta đứng bên cạnh gương để ghi chép lại những gì thấy được, mỗi ba tháng một lần trình lên Ngục Đế để căn cứ vào đó mà phán định tội phước. Trong đó, người có danh vị càng cao thì trách nhiệm và sự trừng phạt càng nặng; kẻ có thuật ngụy trang càng tinh xảo thì hình phạt càng nghiêm. Sách Kinh Xuân Thu trong hai trăm bốn mươi năm đã ‘biểu dương điều thiện, ghét bỏ điều ác’, mức độ khen chê khác nhau, nhưng đặc biệt xem trọng việc trừng phạt những kẻ che giấu hành vi xấu xa. Sự kiện chấn động miếu Di Bá ở nước Lỗ thời Xuân Thu chính là ý trời cảnh báo họ Triển, vì ông ta có tội che giấu điều ác. Ngươi hãy ghi nhớ điều này trong lòng!”

Vị học giả cảm tạ và cúi đầu nhận lời dạy bảo, sau khi về nhà đã nhờ người viết chữ lên một tấm biển, đặt tên cho thư phòng của mình là “Quán Tâm” (tức là soi xét nội tâm).

Phụ lục: Lịch sử về sự kiện chấn động miếu Di Bá ở nước Lỗ thời Xuân Thu

Họ Triển là một đại phu của nước Lỗ, là thân tín của gia tộc Quý Tôn thị – một gia tộc khanh đại phu nắm quyền chính trị nước Lỗ. Di Bá (tên thụy) là ông nội của họ Triển. Vào một đêm ngày Kỷ Mão, sét đánh vào miếu thờ Di Bá. Đây là dấu hiệu trời giáng tội, trừng phạt họ Triển vì có tội ác che giấu, ẩn đi những hành vi phi pháp, “tức là trong tám năm, đã trộm ngọc quý và cây cung lớn”. Vì ông ta là thân tín của họ Quý ở trong triều, không bị kết tội, nên trời đất sinh ra dị tượng để cảnh tỉnh đương sự và cảnh báo những người khác: Gặp họa từ trời, để lại tiếng xấu muôn đời! (Theo Xuân Thu Kinh Truyện Tập Giải, Quyển 5, Hi Công năm thứ 15 của Đỗ Dự thời nhà Tấn; và Xuân Thu Công Dương Truyện Chú Sớ, Hi Công quyển 10 từ năm thứ 8 đến hết năm 21 của Từ Ngạn thời nhà Đường)

Nguồn tài liệu: “Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký, Quyển 1, Loan Dương Tiêu Hạ Lục Nhất” và “Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký, Quyển 7, Như Thị Ngã Văn Nhất”.

Theo Epoch Times