Đại Kỷ Nguyên

Quan Công thuở bé đọc sách, đọc truyện này không lần nào khỏi sa nước mắt

Tạo hình Quan Công trong phim "Tam quốc diễn nghĩa" (1996).

Tam quốc diễn nghĩa khắc họa hình tượng Quan Vân Trường, người anh hùng trung nghĩa với điển cố treo ấn gói vàng, vượt năm ải chém sáu tướng Tào để trở về bên Lưu Bị. Trong lá thư giãi lòng cùng huynh trưởng, Quan Công từng nhắc đến một câu chuyện ông đã đọc từ thuở nhỏ, khiến ông cảm khái mà sa nước mắt. 

Sau khi kết nghĩa vườn đào, ba anh em Lưu Quan Trương một lòng tôn phù Hán thất, chống lại các lực lượng quân phiệt chia cắt Trung Quốc lúc bấy giờ. Nhưng vì thế cô lực mỏng, phải long đong khắp nơi, trải nhiều khổ cực. Sau trận thua Tào Tháo ở Từ Châu, ba người lạc nhau, Quan Vũ phải tạm đầu hàng để bảo toàn sinh mạng của hai chị dâu và nghe ngóng tin Lưu Bị. Về sau, để báo ân, Quan Công đã giúp Tào Tháo giải vây thành Bạch Mã, chém Nhan Lương và Văn Sú là hai tướng yêu của Viên Thiệu. Lưu Bị lúc bấy giờ đang nương nhờ họ Viên, biết tin em thì vội vã viết thư, thư rằng:

“Bị cùng túc hạ, kết nghĩa vườn đào, thề cùng sống thác, nay sao nửa đường bỏ nhau, cắt đứt ân nghĩa? Túc hạ nếu muốn lập công danh, toan đường phú quý, Bị xin đem đầu dâng túc hạ để túc hạ lập nên công lớn. Thư nói không xiết, chịu chết ngồi chờ lệnh”.

Quan Công xem xong thư thì khóc to, viết lại lá thư bày tỏ nỗi lòng mình.

“Trộm nghĩ: đã là nghĩa thì không bao giờ phụ lòng; đã là trung thì không bao giờ sợ chết. Vũ này từ thuở nhỏ bé đọc sách, hơi biết lễ nghĩa. Xem truyện Dương Giác Ai và Tả Bá Đào thường than thở hai ba lần, mà sa nước mắt.

Khi trước giữ thành Hạ Phì, trong lòng không có thóc chứa, ngoài chẳng có viện binh, đã toan liều chết, nhưng vì có trọng trách đối với hai chị, không dám quyên sinh để phụ lòng uỷ thác của anh, cho nên còn tạm nương náu đây, mong có ngày cùng nhau tụ hội.

Mới đây em đến Nhữ Nam, mới biết tin anh. Xin lập tức từ giã Tào công, đem hai chị về. Em bằng có bụng khác, thần người cùng giết. Moi gan rạch mật, bút giấy nói không hết lời, bái kiến có ngày, xin nhủ lòng soi xét”.

Tấm lòng của Quan Công son sắt lắm thay! Thuở xưa khi đọc những dòng này, tôi tự hỏi Dương Giác Ai và Tả Bá Đào là ai mà khiến Vân Trường “than thở hai ba lần, mà sa nước mắt”? Câu chuyện về họ là thế nào mà khiến ông đọc sách từ thuở bé, ghi khắc mãi trong tim? Quan Công nhắc lại cố sự này với Lưu Bị, hẳn rằng nó có liên quan đến tình cảnh chia cắt lúc bấy giờ của Lưu-Quan, và chắc rằng mấy chữ đó đủ bộc bạch tấm lòng kẻ sĩ. 

Sau này, cơ duyên khiến tôi đọc được câu chuyện đầy đủ về Dương Giác Ai và Tả Bá Đào, mừng rỡ xiết bao.[1] Tôi đã hiểu, vì sao Quan Công đọc truyện lại xúc động sâu xa đến thế. Nay kính xin được chia sẻ cùng quý độc giả tri âm.

Truyện Dương Giác Ai và Tả Bá Đào

Thời Lục quốc, Sở Vương sùng Nho trọng Đạo, chiêu hiền nạp sĩ. Thiên hạ nghe tin quy phục, nhiều không đếm được. Ở núi Tích Thạch ở Tây Khương, có một người đọc sách, họ Tả tên là Bá Đào, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, ông vừa mưu sinh vừa chăm chỉ đọc sách, đã thành tựu tài năng an bang tế thế. Bấy giờ ông tuổi đã gần tứ tuần, bởi các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, kẻ hành nhân chính thì ít mà cậy sức mạnh thì nhiều, nên ông vẫn chưa theo đuổi công danh. Nghe nói Sở Vương trọng nhân nghĩa, hiện đang cầu kẻ sĩ hiền năng khắp các nơi, ông bèn thu xếp sách vở hành lý, cáo biệt bạn bè láng giềng, lên đường đi gặp Sở Vương.

Tả Bá Đào đi liên tục đến địa phận Úng Châu, đúng lúc thời tiết giá lạnh, mưa to gió lớn, ông đội mưa đi được một ngày, áo quần đều ướt cả. Nhìn xem thấy trời đã tối, bèn đến thôn xóm gần đó tìm chỗ trú. Từ xa xa thấy trong rừng trúc có ánh đèn xuyên qua khung cửa sổ, liền đi thẳng đến đó. Thấy một bờ rào thấp thấp, bao quanh một gian nhà tranh. Ông đi thẳng đến gõ nhẹ cửa, có một người mở cửa đi ra.

Tả Bá Đào vội vàng thi lễ nói: “Tiểu sinh là người ở Tây Khương, họ Tả, tên là Bá Đào. Muốn đến nước Sở, không ngờ giữa đường gặp mưa, không chỗ nào tìm được quán trọ. Muốn nương nhờ tá túc một đêm, sớm mai sẽ đi ngay, không biết ông có thu nhận?”. Người kia nghe nói vậy, vội vàng đáp lễ, mời ông vào trong nhà. Bá Đào thấy trong phòng chỉ có một cái sạp, trên sạp chất đầy sách, ngoài đó ra thì không có vật nào khác. Biết người kia cũng là người đọc sách, ông bèn muốn hỏi thăm. Người kia nói: “Tạm hãy khoan nói chuyện lễ số, trước tiên lấy lửa hong khô quần áo rồi hãy nói chuyện”.

Đêm đó người kia dùng trúc khô nhóm lửa, cùng Bá Đào hong khô quần áo. Lại chuẩn bị rượu và đồ ăn cho Bá Đào dùng, khoản đãi ân cần chu đáo. Bá Đào hỏi tên họ người kia. Người ấy nói: “Tiểu sinh họ Dương, tên là Giác Ai, từ nhỏ mồ côi cha mẹ, sống một mình chỗ này. Bởi vì thích đọc sách quá, việc ruộng vườn đều bỏ hoang hết cả. Hôm nay hạnh ngộ người hiền sĩ từ xa đến đây, nhưng chỉ hận gia cảnh bần hàn, không có gì để khoản đãi ra trò, còn phải xin được lượng thứ nhiều!”. Bá Đào nói: “Trong mưa gió, lại được thu nhận, khiến tôi không phải chịu cái khổ mưa hàn, nhờ ơn ông lấy đồ ăn thức uống khoản đãi, tấm lòng cảm kích mãi không quên!”. Đêm đó, hai người không ngủ, bàn luận học vấn của mình, suốt cả đêm không ngừng.

Đến ngày hôm sau, thấy bên ngoài vẫn mưa không ngừng, Giác Ai bèn giữ Bá Đào ở lại, lấy mọi thứ khoản đãi. Hai người kết làm huynh đệ, Bá Đào nhiều hơn Giác Ai 5 tuổi, Giác Ai bái Bá Đào làm huynh trưởng. Ở lại suốt 3 ngày, mưa tạnh đường khô. Bá Đào nói: “Hiền đệ có tài năng giúp vua, kinh luân đầy mình, mà lại cam lòng ẩn cư ở nơi núi rừng suối biếc, thực là quá đáng tiếc”. Giác Ai nói: “Đệ không phải là không muốn ra làm quan, chỉ là chưa có cơ hội thích hợp thôi”. Bá Đào nói: “Nay Sở Vương khiêm tốn cầu sĩ, hiền đệ lại có lòng như vậy, sao không cùng ta đi?”. Giác Ai nói: “Nguyện nghe theo lời của huynh trưởng”. Thế là chuẩn bị lộ phí lương khô, bỏ lại nhà tranh, hai người cùng nhau đi về phương Nam.

Kết nghĩa đào viên, huynh đệ một ngày, tình nghĩa trăm năm (ảnh dẫn qua Soha).

Đi được chưa đến hai ngày, lại gặp phải mưa to, buộc phải ở lại quán trọ, lộ phí dọc đường dùng hết, chỉ còn lại một bao lương khô. Hai người thay nhau vác, đội mưa đi về phía trước. Mưa vẫn không ngớt, lại nổi gió lớn, tuyết lớn rơi như lông thiên nga bay khắp trời. Thật đúng là “rối bời bông liễu trong cuồng phong, từng cánh lông thiên nga tung bay; khuấy động trên không, chẳng phân Nam Bắc Đông Tây; nhuốm kín đất trời, biến tận Xanh Vàng Đỏ Đen. Tìm mai thi khách đa tình thú, trên đường người đi muốn đoạn hồn”. 

Hai người đi qua Kỳ Dương, đến Lương Sơn, hỏi đường người tiều phu, thì đều nói rằng: “Từ đây đi trong vòng hơn trăm dặm, không có bóng người, chỉ toàn là núi non hoang dã, lang hổ thành bầy, tốt nhất đừng đi”. Bá Đào hỏi Giác Ai: “Hiền đệ định thế nào?”. Giác Ai nói: “Từ xưa sinh tử hữu mệnh. Đã đến bước này, chỉ cần đi tiếp, không nên có ý bỏ cuộc”. Lại đi được một ngày, đêm trú ở cổ mộ, y phục đơn mỏng, gió lạnh thấu xương.

Ngày hôm sau, tuyết lại càng rơi nặng hơn, trong núi hồ như dày hơn một thước. Bá Đào không chịu được lạnh, nói: “Ta nghĩ từ đây đi hơn trăm dặm, không người nhà cửa; lương khô chúng ta không đủ, lại y phục đơn mỏng. Nếu như một người đi một mình, thì có thể đến nước Sở; hai người cùng đi, thì dù cho không chết rét, cũng sẽ chết đói giữa đường, cùng nhau chết mục với cỏ cây, vậy nào có ích chi đây? Ta lấy quần áo trên người cởi đưa cho hiền đệ mặc, hiền đệ có thể một mình mang theo lương khô, tận lực gắng gỏi đi về trước. Ta thực sự không đi nổi nữa, thà chết ở đây. Đợi hiền đệ gặp Sở Vương rồi, nhất định sẽ được trọng dụng, lúc bấy giờ lại quay lại an táng ta chưa muộn”. Giác Ai nói: “Nào có cái đạo lý đó?! Hai chúng ta mặc dù không phải cùng một cha mẹ sinh ra, nhưng nghĩa tiết nặng quá cốt nhục. Đệ sao có thể yên tâm bỏ lại huynh trưởng mà một mình đi cầu công danh chứ?”. Kiên quyết không chấp nhận, dìu Bá Đào đi tiếp.

Đi chưa đến 10 dặm, Bá Đào nói: “Gió tuyết càng ngày càng mạnh, đi sao nổi? Tạm hãy tìm chỗ ven đường nghỉ một lát đã”. Nhìn thấy một cây dâu khô, vừa hay có thể tránh gió tuyết. Dưới cây dâu chỉ có thể chứa một người, Giác Ai liền dìu Bá Đào đến ngồi xuống. Bá Đào bảo Giác Ai lấy đá đánh lửa, đốt chút cành khô để chống cự gió rét. Đợi Giác Ai đi kiếm củi trở về, chỉ thấy Bá Đào cởi trần truồng, y phục trên mình đều vứt đống ở đó. Giác Ai kêu lớn: “Huynh trưởng sao phải như vậy?”. Bá Đào nói: “Ta nghĩ tới nghĩ lui, không có biện pháp nào tốt hơn. Hiền đệ hết sức chớ có bỏ lỡ, mau chóng mặc quần áo vào, vác lương khô đi tiếp, ta đành chết tại chỗ này thôi”. Giác Ai ôm lấy Bá Đào khóc rống lên: “Hai chúng ta sống chết có nhau, làm sao có thể chia lìa?”. Bá Đào nói: “Nếu đều chết đói cả, thì ai an táng chúng ta đây?”. Giác Ai nói: “Nếu như vậy, tiểu đệ tình nguyện cởi bỏ quần áo đưa cho huynh trưởng mặc, huynh trưởng có thể tự mang lương khô đi tiếp, tiểu đệ thà chết ở chỗ này.”

Bá Đào nói: “Ta đã thân mang nhiều bệnh, hiền đệ còn trẻ tuổi cường tráng, lại học vấn đầy mình, ta không bì kịp. Nếu gặp được Sở Vương, ắt sẽ hiển quý. Ta chết không đáng kể! Hiền đệ đừng ở lại lâu quá, hãy đi tiếp đường còn xa”. Giác Ai nói: “Nay huynh trưởng chết đói, đệ một mình đi cầu công danh, đây là đại bất nghĩa, đệ sẽ không làm vậy”. Bá Đào nói: “Từ khi ta rời khỏi Tích Thạch Sơn, gặp được đệ, vừa gặp như đã quen. Biết được đệ có chí hướng bất phàm, bởi vậy mới khuyên hiền đệ đi cầu tiến công danh. Chẳng may bị gió tuyết cản trở, đây là số mệnh ta đã tận. Nếu khiến cho hiền đệ cũng phải chết ở đây, thì ta có tội lớn vậy”. Nói xong, bèn nhảy vào khe suối phía trước tìm cái chết. 

Giác Ai ôm lấy ông khóc khổ sở, dùng y phục cuốn lấy, rồi dìu xuống dưới cây dâu. Bá Đào đẩy quần áo ra, Giác Ai lại muốn khuyên giải, nhưng thấy Bá Đào thần sắc đã biến, tứ chi lạnh toát, miệng không nói được, chỉ lấy tay ra hiệu Giác Ai hãy đi mau. Giác Ai nghĩ: “Nếu mình lưu luyến lâu chỗ này, thì cũng bị chết cóng, lúc ấy ai sẽ an táng cho huynh trưởng đây?”. Thế là ở dưới tuyết bái lạy Bá Đào, khóc nói: “Đệ không tốt đi đây, nhờ huynh trưởng ở dưới u minh tương trợ, một khi được công danh, nhất định sẽ đến đây hậu táng huynh trưởng”. Bá Đào gật đầu đáp ứng. Giác Ai lấy quần áo, lương khô, rớt nước mắt mà đi. Bá Đào chết dưới cây dâu.

Giác Ai chịu giá rét, nửa đói nửa no đến được nước Sở, tìm quán trọ nghỉ ngơi. Ngày hôm sau đi vào trong thành, hỏi thăm dân chúng: “Sở Vương chiêu nạp hiền sĩ, đi bái kiến thế nào?”. Có người trả lời: “Ngoài cửa cung có dựng một quán khách, để thượng đại phu Bùi Trung tiếp kiến nhân sĩ trong thiên hạ”. Giác Ai bèn đi thẳng đến trước quán khách, đúng lúc thượng đại phu xuống xe. Giác Ai hướng đến trước vái chào. Bùi Trung thấy Giác Ai mặc dù quần áo lam lũ, nhưng khí vũ bất phàm, vội vàng đáp lễ, hỏi rằng: “Hiền sĩ là từ đâu tới?”. Giác Ai trả lời: “Tiểu sinh họ Dương, tên là Giác Ai, người Ung Châu. Nghe nói quý quốc chiêu nạp hiền sĩ, nên nay đến quy phục”. Bùi Trung mời Giác Ai đến quán khách, chuẩn bị rượu và đồ ăn thiết đãi, lưu lại ở trong quán.

Ngày hôm sau, Bùi Trung đến quán hỏi thăm, đem những nghị đề hỏi Giác Ai, để thử học vấn của ông ra sao. Giác Ai đều trả lời được hết, đàm luận trôi chảy. Bùi Trung mừng lắm, vào tấu với Sở Vương. Sở Vương lập tức cho triệu kiến, hỏi về đạo làm cho nước giàu binh mạnh. Giác Ai hiến mười sách lược, phân tích hay dở. Sở Vương mừng lắm, thiết ngự yến khoản đãi, và phong cho làm Trung đại phu, ban cho trăm lượng vàng, trăm khố vải. Giác Ai bái tạ Sở Vương, khóc lóc chảy nước mắt. Sở Vương kinh ngạc, hỏi: “Khanh vì sao mà đau lòng như vậy?”. Giác Ai bèn đem chuyện Tả Bá Đào nhường y phục, lương khô, kể lại chi tiết cho Sở Vương. Sở Vương nghe xong, cũng cảm thương sâu sắc. Chư đại thần cũng không ai không đau buồn. Sở Vương nói: “Hiện giờ khanh định tính làm thế nào?”. Giác Ai nói: “Thần xin được nghỉ, ra ngoài an táng Bá Đào xong xuôi, rồi lại trở lại phụng sự Đại Vương”. Sau đó Sở Vương truy phong Bá Đào làm Trung đại phu, và ban cho chi phí an táng rất hậu, sai người theo Giác Ai ngồi xe cùng đi.

Giác Ai cáo từ Sở Vương, vội đi đến địa phận Lương Sơn, tìm chỗ cây dâu khô lúc trước, thấy thi thể Bá Đào vẫn còn đó, sắc mặt vẫn trông như lúc còn sống. Sau đó Giác Ai khóc lạy hồi lâu. Lệnh cho tùy tùng chiêu tập phụ lão địa phương, tìm được một miếng đất quý phong thủy tốt phía trước trông ra suối lớn, phía sau dựa vào núi cao, hai bên trái phải bao quanh bởi núi cao, dùng nước thơm tắm gội thi thể Bá Đào, rồi mặc cho y quan của Trung đại phu, nội quan ngoại quách, an táng xong, dựng rào trúc trồng cây bốn phía xung quanh, cách phần mộ 30 bước dựng một từ đường, đắp tượng Bá Đào, lập văn biểu, trên cột dựng bài ngạch, bên tường lợp bằng ngói nung, sai người trông coi. Dựng xong, tế tự trong từ đường, tiếng khóc bi thiết cảm động. Phụ lão trong làng và những người đi theo, thấy vậy không ai không rơi lệ.

***

Hai người Dương – Tả, vốn không quen biết, chỉ tình cờ gặp mặt, nghĩa khí tương đầu, kết làm huynh đệ, rồi khi gặp nguy hiểm, hai người đều nguyện bản thân chết để đối phương được sống, nghĩa khí khảng khái đó khiến trời đất cảm động. Người đời sau lấy câu chuyện “Dương Tả chi giao” để hình dung tình bạn sinh tử hoạn nạn có nhau. Quan Vũ từ thuở nhỏ bé đã đọc truyện Giác Ai và Bá Đào, lần nào đọc cũng sa nước mắt, tiết nghĩa của họ đã góp phần làm nên một Quan Công “Treo ấn phong vàng giã tướng Tào/ Tìm anh dấn bước dạ xôn xao”, một Quan Công bị khốn ở Mạch Thành, đối diện với cái chết vẫn giữ cốt cách thanh cao như ngọc, nghĩa khí chẳng thẹn với Trời xanh. 

Tăng Quốc Phiên từng nói: “Khí chất một người là do thiên bẩm, rất khó để thay đổi. Chỉ có đọc sách mới giúp con người thay đổi khí chất. Cổ nhân quý bởi tướng pháp, nhưng đọc sách cũng có thể thay đổi cốt tướng”. Cổ nhân đọc sách là để hiểu đạo, hành đạo và bồi dưỡng đức hạnh. Chúng ta hôm nay có duyên đọc Tam quốc, có phải như Quan Công xưa đọc được truyện Giác Ai và Bá Đào chăng? Tin rằng chỉ cần có tâm chân thành hướng thiện thì nhất định sẽ là như vậy!

Chú thích: [1] Truyện Dương Giác Ai và Tả Bá Đào được nhắc đến trong Hán triều – Lưu Hướng “Liệt Sĩ truyện” và Minh triều – Phùng Mộng Long “Dụ thế minh ngôn” quyển 7. Câu chuyện trong bài viết trích từ Minh Huệ Net (vn.minghui.org).

Thanh Ngọc

Video: Huyền cơ ẩn sau những nhân vật được lựa chọn trong Tây Du Ký

Exit mobile version