Năm 1976, vào tháng 9, họa sĩ thuộc thế hệ thanh niên trí thức Trần Đan Thanh cùng hai họa sĩ khác được cử đến Tây Tạng để vẽ ký họa. Vào một buổi chiều ngày 9 tháng 9, ông Trần Đan Thanh nhận được thông báo rằng hôm nay không cần đi vẽ nữa, vào lúc 4 giờ chiều đài phát thanh sẽ có một buổi phát sóng quan trọng.
Buổi phát sóng quan trọng gì vậy? Những người sống trong năm 1976 đều hiểu đó là một cảm giác như thế nào, đó là một năm ra sao. Tháng Giêng, ông Chu Ân Lai qua đời. Giữa mùa hè là cái chết của ông Chu Đức. Năm đó, lòng người đều đang âm thầm chờ đợi, thầm đoán, người tiếp theo sẽ là…
Buổi chiều ở Lhasa, nắng gắt. Buổi phát sóng bắt đầu. Ông Trần Đan Thanh nghe được nội dung, ông cố gắng kìm nén sự co giật ở khóe miệng, chỉ sợ không kiềm chế được mà bật cười. Bởi vì ngày này, rất nhiều người đã chờ đợi từ rất lâu rồi, mặc dù họ không dám nói ra. Ngày hôm đó, Mao Trạch Đông đã chết, hưởng thọ 83 tuổi.
Những người tinh ý bỗng nhiên hiểu ra, tại sao nhiều năm trước, một đạo sĩ già ở Tây Sơn, Bắc Kinh lại bảo Mao Trạch Đông đặt tên cho đội quân cảnh vệ của mình là 8341. 83, đại diện cho việc Mao Trạch Đông sống thọ 83 tuổi. Còn 41? Là từ sau Hội nghị Tuân Nghĩa năm 1935, Mao Trạch Đông trở thành lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1976, tổng cộng là 41 năm.
Mao Trạch Đông, người luôn nhồi sọ người dân về chủ nghĩa vô thần, thực ra bản thân lại rất tin vào số mệnh. Nhưng tại sao ông ta lại không cho người Trung Quốc tin? Bởi vì nếu mọi người đều tin rằng trên đời có Thần Phật, có những sinh mệnh cao hơn con người, thì sẽ không còn ai tin vào lý thuyết của Đảng Cộng sản Trung Quốc nữa.
Khi tin tức về cái chết của Mao Trạch Đông được công bố trên đài phát thanh, nhiều người Trung Quốc tưởng rằng trời sắp sập. Không có sự lãnh đạo anh minh của Mao chủ tịch, không có mặt trời đỏ nữa, Trung Quốc sẽ phải làm sao đây? Nhưng sáng hôm sau thức dậy, mặt trời ở Lhasa lại mọc, chiếu rọi lên đỉnh vàng của cung điện Potala, nơi từng là trú xứ của Đức Đạt Lai Lạt Ma phải trốn chạy. Không lâu sau, ông Trần Đan Thanh được cấp trên chỉ định vẽ một bức tranh sơn dầu về cảnh toàn dân tiếc thương cái chết của Mao Trạch Đông.
Ông đã vẽ một bức tranh có tên “Nước mắt chan hòa ruộng đồng bội thu”. Bức tranh này đã giúp ông nổi danh chỉ sau một đêm. Dù sau này ông thi môn tiếng Anh được điểm không, nhưng vẫn nhờ tài năng mà được Học viện Mỹ thuật Trung ương tuyển thẳng.
Khi ông Trần Đan Thanh đang chuyên tâm vẽ tranh ở Lhasa, thì Bắc Kinh đang trải qua một sự bất an to lớn. Cái chết của Mao Trạch Đông đã để lại một khoảng trống quyền lực. “Bè lũ bốn tên” nổi lên từ cuộc Cách mạng Văn hóa, gồm Giang Thanh, một cựu diễn viên Thượng Hải; Trương Xuân Kiều, người giỏi mưu mô; Diêu Văn Nguyên, người được mệnh danh là “cây gậy vàng của giai cấp vô sản”; và Vương Hồng Văn, một người lính xuất ngũ sau đó làm cán bộ bảo vệ tại nhà máy dệt quốc doanh số 17 ở Thượng Hải. Tất cả họ đều đến từ Thượng Hải. Mao Trạch Đông từng nói với Giang Thanh và những người khác rằng, các người chính là một “bè lũ Thượng Hải”.
Tại sao lại tạo ra một bè lũ Thượng Hải? Đó là để Mao Trạch Đông kiềm chế quyền lực của Lâm Bưu, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình, nâng đỡ họ lên. Dùng một lực lượng chính trị từ bên ngoài Bắc Kinh để kiềm chế trung ương, lợi dụng việc họ không quen thuộc với nhân sự chính trị ở Bắc Kinh, trong thời gian ngắn sẽ không dễ dàng kết bè kết phái với các phe nhóm lớn. Dùng cách này để thực hiện ưu thế của mình trong cuộc đấu đá cao nhất của ĐCSTQ trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Nhiều năm sau, Đặng Tiểu Bình lại sử dụng phương pháp này sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, dùng Giang Trạch Dân từ Thượng Hải, để một quan chức địa phương trực tiếp tiếp quản quyền lực cao nhất của trung ương. Có hiệu quả không? Rất hiệu quả, rất nghe lời. Nhưng cũng giống như “Bè lũ bốn tên” năm xưa, Giang Trạch Dân cũng sẽ nhân cơ hội để lớn mạnh, nhanh chóng xây dựng trung tâm quyền lực của riêng mình, hình thành một “bè lũ Thượng Hải” mới. Và người dân Trung Quốc, trong một thể chế không thể tham gia và thể hiện ý chí chính trị của mình, chỉ có thể trở thành nô lệ hết thế hệ này đến thế hệ khác.
“Bè lũ bốn tên Thượng Hải” và các cán bộ lão thành của ĐCSTQ bị đàn áp trong Cách mạng Văn hóa tồn tại những khác biệt to lớn. Khi Mao Trạch Đông qua đời, cuộc đấu tranh nội bộ này trở nên vô cùng khốc liệt. Do Vương Hồng Văn kiểm soát Văn phòng Trung ương, và ông ta lại rất táo bạo. Ông ta đã lập ra một phòng trực ban riêng của Văn phòng Trung ương, một nước cờ rất độc địa, được thực hiện sau lưng Bộ Chính trị. Mọi việc lớn nhỏ trong cả nước đều phải qua phòng trực ban đó, qua tay ông ta, điều này đã cắt đứt liên lạc giữa Hoa Quốc Phong và cả nước. Cộng với địa vị đặc biệt của bà Mao là Giang Thanh, vị thế của Hoa Quốc Phong, người được Mao Trạch Đông giao phó cuối cùng, rất không vững chắc.
Nghe nói lúc đó, giấy đỏ ở Thượng Hải đã bán hết sạch. Tại sao? Người dân Thượng Hải chuẩn bị tung giấy đỏ để ăn mừng bè lũ Thượng Hải giành được quyền lực tối cao.
Vào lúc này, ngày 26 tháng 9, ông Lý Tiên Niệm, theo sự ủy thác của Hoa Quốc Phong, đã lần thứ hai đến Ngọc Tuyền Sơn để gặp Diệp Kiếm Anh. Diệp Kiếm Anh lập tức bật đài lên, hai người ngồi cạnh nhau. Diệp Kiếm Anh hỏi: “Anh Hoa đã quyết tâm chưa?”. Lý Tiên Niệm trả lời: “Đã quyết tâm rồi”. Diệp Kiếm Anh vội vàng vặn to tiếng đài lên nữa, bắt đầu hỏi cụ thể về thái độ của mấy ủy viên Bộ Chính trị. Sau khi biết được tình hình cụ thể, Diệp Kiếm Anh bày tỏ thái độ: “Sự việc đã đến nước này, phải giải quyết vấn đề bè lũ bốn tên thôi”.
Thế là, Hoa Quốc Phong đã nhận được sự ủng hộ của vị nguyên soái lão thành trong quân đội, và bắt đầu chuẩn bị cho việc bắt giữ. Đồng thời, dù sao đây cũng là một cuộc thay đổi chính quyền không thông qua dân chủ trong đảng, nói trắng ra là một cuộc chính biến. Đã là chính biến thì phải có danh chính ngôn thuận. Uông Đông Hưng lúc đó đã đề nghị, phải soạn thảo trước văn kiện trung ương. Bên này vừa bắt “Bè lũ bốn tên”, bên kia phải lập tức đưa ra văn kiện trung ương để hiệu triệu thiên hạ.
Bạn nghĩ xem, dựa vào đâu mà toàn dân lại công nhận bạn là chân mệnh thiên tử? Theo cách nói của dân gian là “mượn người chết để lập uy”. Theo cách nói của ĐCSTQ là “giương cao ngọn cờ vĩ đại của Mao Trạch Đông”. Trung ương mới phải làm hai việc để lập uy. Một là xuất bản “Mao Trạch Đông Tuyển tập” tập thứ năm. Lúc đó, Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên cũng đang tranh giành bản thảo của Mao Trạch Đông. Tại sao họ lại tranh giành? Bạn nghĩ xem, ai có thể xuất bản “Mao Tuyển” tập năm, chẳng phải có nghĩa là người đó đại diện cho tư tưởng Mao Trạch Đông, đã được Mao Trạch Đông chân truyền hay sao?
Vì vậy, ngay khi “Bè lũ bốn tên” bị bắt, Trung ương Đảng mới vào cuối những năm 70 đã cho in “Mao Tuyển” tập năm với số lượng khổng lồ, như một cách thể hiện “ta là chân mệnh thiên tử”. Lúc đó, ở các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp trên toàn quốc, lý do xin nghỉ không thể từ chối nhất chính là “tôi đi mua Mao Tuyển tập năm”. “Đi nhanh đi, đi nhanh đi”, không ai dám cản. Các hiệu sách Tân Hoa xếp hàng dài, còn “hot” hơn tất cả các cuốn sách bán chạy nhất hiện nay. Tại sao? Không phải vì sách hay, mà là mọi người đều đang thể hiện lòng trung thành, sợ bị phê bình là không tích cực, không tiến bộ về mặt chính trị.
Bạn có thể hỏi, không phải bây giờ người ta nói “anh đang làm chính trị”, “các người đang làm chính trị” là một từ không tốt sao? Đúng vậy, đó là sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Bạn có yêu cầu chính trị, chẳng phải là bạn muốn dân chủ sao? Bạn muốn chống lại sự đàn áp, muốn cải cách chính trị. Bây giờ, ĐCSTQ chỉ muốn bạn tập trung kiếm tiền, trói bạn vào những căn nhà giá cao để làm nô lệ nhà đất, không cho bạn nhòm ngó đến quyền lực chính trị của ĐCSTQ, để nó có thể tiếp tục cầm quyền, vì vậy nó không cho bạn quan tâm đến chính trị nữa.
Người dân, cũng giống như thời phát hành “Mao Tuyển”, mấy chục năm qua, vì nỗi sợ hãi sinh tồn, đều cẩn thận nghiền ngẫm tinh thần của trung ương. “Bảo tôi làm chính trị, tôi tích cực hơn ai hết, xông lên phía trước. Không cho tôi làm chính trị nữa, tôi lùi lại sau cùng, không ra mặt”.
“Mao Tuyển” tập năm tuy trong thời gian ngắn đã có tác dụng hiệu triệu thiên hạ, nhưng không lâu sau, Trung ương Đảng mới phát hiện ra rằng trong đó có rất nhiều bài viết của Mao Trạch Đông mâu thuẫn với chính sách cải cách mở cửa, kinh tế thị trường sau này. Phải làm sao đây? Nếu phản lại Mao Trạch Đông, tính hợp pháp cầm quyền của chính mình sẽ không còn. Nếu không phản lại Mao Trạch Đông, con đường này cũng không thể đi tiếp được. Vì vậy, cái gọi là “ba phần đúng bảy phần sai” thực ra không phải là để định nghĩa Mao Trạch Đông, mà là để lại cho mình một con đường lui. Sau này, Đặng Tiểu Bình đã quyết định dừng phát hành “Mao Tuyển” tập năm và các tập sáu, bảy sau đó. Nguyên nhân lịch sử là ở đây.
Vậy, việc thứ hai mà họ phải làm sau khi bắt “Bè lũ bốn tên” là gì? Để chứng minh mình là chân truyền, việc thứ hai phải làm là xây dựng Lăng Mao Trạch Đông. Thế là, ở trung tâm quốc gia của Trung Quốc đã xuất hiện một lăng mộ khổng lồ. Các hoàng đế ngày xưa cũng biết rằng, dù mình có tôn quý đến đâu, cũng không thể xây lăng mộ của mình trước hoàng cung. Âm khí nặng nề biết bao, lại còn chưa được yên nghỉ. Trung Nam Hải, nơi các lãnh đạo trung ương ở, cách lăng chỉ một trạm xe buýt số 1 ở Bắc Kinh. Nhưng với tư cách là vợ của Mao Trạch Đông, Giang Thanh dù có tự sát để phản kháng, cũng không thể đến trước lăng của chồng mình để bái lạy.
Thực vậy, Giang Thanh là một nhân vật đáng ghét. Nhưng những cán bộ lão thành của ĐCSTQ, những người thực sự bị Mao Trạch Đông thanh trừng, vì lợi ích chung, vì để tiếp tục nắm giữ giang sơn, đã xây dựng lăng mộ cho kẻ đầu sỏ đã gây hại cho dân tộc Trung Hoa và chính bản thân họ. Sau đó, họ trút hết mối hận thù tập thể này lên một nhân vật phụ. Thế là, hận thù tiếp nối, còn lòng khoan dung thì ngày càng xa rời lòng người.
Ngày 6 tháng 10, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên, “Bè lũ bốn tên Thượng Hải” bị bắt. ĐCSTQ đã hoàn thành một cuộc chính biến không kèn không trống. Quách Mạt Nhược từng viết một bài thơ sến sẩm trong Cách mạng Văn hóa có tên “Tặng đồng chí Giang Thanh ngồi đây”, rằng “Đồng chí Giang Thanh thân mến, đồng chí là tấm gương sáng cho chúng tôi học tập”, ca ngợi rất dài. Sau khi “Bè lũ bốn tên” bị bắt, Quách Mạt Nhược lại ngay lập tức viết một bài khác, “Thủy điệu ca đầu – Việc lớn hả lòng người”. Giang Thanh trong tác phẩm mới của ông ta đã biến thành Bạch Cốt Tinh, hãm hại mặt trời đỏ. Giang Thanh không phải là vợ Mao sao, sao lại hãm hại mặt trời đỏ?
Tác phẩm lớn này của Quách Mạt Nhược sau đó được nghệ sĩ Hý kịch Hà Nam Thường Hương Ngọc trình diễn, lưu truyền rộng rãi khắp cả nước. Nhưng có một bài hát còn lưu truyền rộng rãi hơn cả vở Hý kịch Hà Nam của Thường Hương Ngọc, đó là bài “Chúc tửu ca” do Thi Quang Nam sáng tác. Người thuộc thế hệ đó đều rất quen thuộc: “Tháng Mười, sấm vang, tám trăm triệu thần châu cạn chén vàng…”. Bài hát này được cho là sáng tác để ăn mừng việc đập tan “Bè lũ bốn tên”. Nhưng, bạn nghe bài hát này xem, ngoài việc nâng ly uống rượu vui mừng, người dân Trung Quốc thực ra không biết bước tiếp theo nên đi về đâu. Tại bước ngoặt quan trọng của lịch sử Trung Quốc, giới trí thức một lần nữa vắng mặt. Trong một xã hội Trung Quốc khép kín, con đường dân chủ gần như không phải là một lựa chọn khả thi.
Thế là, Trung Quốc bắt đầu sắp xếp lại bàn cờ. Diệp Kiếm Anh, người có công trong việc bắt giữ “Bè lũ bốn tên”, tự nhiên có tiếng nói. Ông đã đề cử năm người. Đầu tiên là Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình tái xuất. Lúc đó, Đặng Tiểu Bình đang ở nhà rảnh rỗi đánh bài. Sau khi thư ký đọc cho ông nghe văn kiện trung ương tuyên bố ông trở lại làm việc, câu đầu tiên ông nói là “tiếp tục đánh bài”.
Người thứ hai Diệp Kiếm Anh đề cử là Hồ Diệu Bang. Lúc đó, ông đã đề ra ba chính sách, được ví như “Long Trung tam sách” của Gia Cát Lượng. Thứ nhất, ngừng phê phán Đặng, tức là không phê phán Đặng Tiểu Bình nữa. Ngừng phê Đặng, lòng dân sẽ thuận. Thứ hai, giải quyết các vụ án oan, lòng dân sẽ vui. Thứ ba, tập trung mạnh vào sản xuất, lòng dân sẽ hân hoan. Ông Hồ Diệu Bang nói chuyện cũng rất vần.
Diệp Kiếm Anh còn đề cử Trương Ái Bình. Sau khi Trương Ái Bình nhậm chức, quân đội nhanh chóng thoát khỏi đường lối chính trị hóa, chuyển sang hiện đại hóa quân đội. Người thứ tư được đề cử là Liêu Hán Sinh, đi quản lý Thượng Hải. Người thứ năm là Tập Trọng Huân. Tập Trọng Huân được cử đến Quảng Đông để giải quyết vấn đề một lượng lớn người tị nạn trốn sang Hồng Kông. Đặc khu kinh tế Thâm Quyến sau này chính là được thành lập dưới sự thúc đẩy của Tập Trọng Huân.
Đồng thời, Diệp Kiếm Anh đã liên hệ với cấp dưới cũ của mình là Cảnh Tiêu, người đang phụ trách công việc của Quân ủy Trung ương, và nhận con trai của Tập Trọng Huân là Tập Cận Bình, vừa mới tốt nghiệp, làm thư ký chính trị cho mình. Bạn phải biết, không phải là Diệp Kiếm Anh sắp xếp thế nào, mà là nguyên tắc phân công của sinh viên công nông binh lúc đó là gì? Từ đâu đến thì về đó. Tập Cận Bình lẽ ra phải trở về nông thôn Thiểm Tây. Chính vì có nhân quả này, sau khi Tập Cận Bình được đưa lên làm lãnh đạo ĐCSTQ, con trai của Diệp Kiếm Anh là Diệp Tuyển Ninh, với tư cách là lãnh đạo của nhóm “thái tử đảng”, đã tiếp tục ủng hộ Tập Cận Bình, cùng nhau duy trì sự kiểm soát ổn định của các gia tộc đỏ đối với đất nước này.
Giới quyền quý của ĐCSTQ bắt đầu bố cục, người dân cũng đón nhận những cơ hội mới trong thời đại đó. Năm 1977, kỳ thi đại học được khôi phục. Những người đến thi không giống như hôm nay bạn thấy, đều là những sinh viên mười bảy, mười tám tuổi tràn đầy sức sống. Vì Cách mạng Văn hóa đã làm lỡ dở mười năm, nên khi kỳ thi đại học được khôi phục, người ta nói không giới hạn tuổi tác, không giới hạn xuất thân. Những người đến thi đủ mọi lứa tuổi. Có người năm xưa hưởng ứng lời kêu gọi của đảng lên núi xuống làng, sau đó còn lấy chồng là nông dân địa phương. Bạn thấy chồng cô ấy ngồi xổm ngoài phòng thi như ngồi trên ruộng, trong lòng còn ôm đứa con mới sinh. Mẹ đang thi bên trong, giữa chừng con khóc, phải chạy ra cho bú vài miếng, cho con no rồi lại chạy vào thi tiếp.
Dù sao đi nữa, mặt trời đỏ mới lặn được một năm, người ta đã phát hiện ra rằng, sống không phải là không có hy vọng. Năm 1978, ĐCSTQ quyết định ngừng phong trào “lên núi xuống làng” và sắp xếp ổn thỏa việc làm cho thanh niên trí thức trở về thành phố. Phần lớn thanh niên trí thức lần lượt trở về thành phố, một số ít kết hôn và định cư ở nông thôn, ở lại đó mãi mãi. Trong đó đã diễn ra bao nhiêu câu chuyện vui buồn ly hợp. Bộ phim truyền hình những năm 80 “Tuế nguyệt trắc trở” và bộ phim sau này “Nghiệt trái” đều phản ánh con người và sự việc của thời đại đó.
Thanh niên trí thức, thế hệ này bây giờ đã ở độ tuổi sáu, bảy mươi. Mặc dù một số người trong họ sau này đã được học hành cao hơn, và cũng vì có những trải nghiệm và rèn luyện khác nhau mà rất xuất sắc. Nhưng với tư cách là thế hệ thanh niên trí thức, cả một thế hệ này thực chất là một thế hệ bị Cách mạng Văn hóa làm lỡ dở.
Đồng thời, đấu tranh nội bộ đảng lại nổi lên. Đặng Tiểu Bình một mặt hô hào “ủng hộ lãnh tụ anh minh Hoa chủ tịch”, một mặt bắt đầu cuộc thảo luận lớn về “thực sự cầu thị”. Lúc đó, Uông Đông Hưng đã đưa ra “hai phàm là”. Hai phàm là gì? Phàm là quyết sách của Mao chủ tịch, chúng ta đều kiên quyết ủng hộ. Phàm là chỉ thị của Mao chủ tịch, chúng ta đều trước sau như một tuân theo. Cách thể hiện này, các cán bộ cao cấp của ĐCSTQ bị đàn áp trong Cách mạng Văn hóa đều rất phản cảm. Thế là, quan điểm “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý” của Đặng Tiểu Bình đã chiến thắng chân lý “một câu của Mao Trạch Đông bằng vạn câu”.
Thực ra, chúng ta biết, chân lý luôn ở đó, nó không phải do nhận thức và thực tiễn nông cạn của con người quyết định. Nhưng đối với ĐCSTQ, sau khi ra khỏi Cách mạng Văn hóa và niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, nó cần gấp một phương pháp thực dụng để có thể tiếp tục tồn tại. Trên thực tế, Hoa Quốc Phong lúc đó đã bắt đầu công việc giải quyết các vấn đề tồn đọng của Cách mạng Văn hóa, chứ không phải làm theo “hai phàm là” mà Uông Đông Hưng nói. Nhưng Đặng Tiểu Bình cứ khăng khăng rằng “hai phàm là” có liên quan đến Hoa Quốc Phong. Thế là, Hoa Quốc Phong, người giương cao ngọn cờ Mao Trạch Đông, cuối cùng vì sự phản cảm tập thể của ĐCSTQ đối với Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông mà bị hạ bệ.
Nhưng liệu Đặng Tiểu Bình có biết chân lý thực sự ở đâu không? Lối ra của Trung Quốc ở đâu?
Đầu năm 1978, tại thôn Tiểu Cương, huyện Phượng Dương, tỉnh An Huy, 18 nông dân để có cái ăn đã bí mật bàn nhau chia ruộng đất tập thể cho từng hộ. Điều này vào thời điểm đó là một việc làm vô cùng mạo hiểm. Nếu không cẩn thận, bị quy cho tội danh “tư túi tài sản tập thể” thì sẽ bị bắt giam. Vì vậy, 18 người nông dân này rất bi tráng, đã cùng nhau điểm chỉ. Vì chia ruộng cho hộ, nông dân coi như làm cho chính mình, nên năm đó thu hoạch lương thực nhiều hơn rất nhiều so với những năm trước. Chuyện này được Bí thư Tỉnh ủy An Huy thực dụng là Vạn Lý biết được, ông đã ủng hộ và cho phổ biến trên toàn quốc. Sau này, các đảng viên cộng sản Trung Quốc luôn tuyên truyền rằng chính sách khoán trách nhiệm mà đảng thực hiện ở nông thôn là một chính sách tốt. Chính sách tốt gì chứ? Thực ra là Đảng Cộng sản Trung Quốc đừng quản, ít quản thôi, để sức sáng tạo của người dân Trung Quốc được phát huy một cách tự nhiên, thì có thể tạo nên một tương lai vĩ đại cho dân tộc.
Tháng 10 năm 1978, bộ phim Nhật Bản “Truy Bổ” được chiếu ở Trung Quốc. Đây là bộ phim dịch đầu tiên được chiếu ở Trung Quốc sau Cách mạng Văn hóa. Người dân không chỉ nhớ đến người đàn ông cứng rắn Takakura Ken, mà còn nhớ đến câu thoại nổi tiếng trong phim: “Đỗ Khâu, trời xanh biết bao. Cứ đi thẳng về phía trước, đừng nhìn hai bên”.
Một câu thoại mà ai cũng thuộc lòng. Tháng 12, Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI của ĐCSTQ đã xác lập chính sách cải cách mở cửa. Cải cách trong đảng, cải cách thế nào? Mở cửa với bên ngoài, mở thế nào? Kết quả là cả đảng đều giống như Đỗ Khâu, cứ đi thẳng về phía trước, không nhìn hai bên. Đặng Tiểu Bình tiếp nối phương châm chiến lược cuối cùng của Mao Trạch Đông, đi về phía trước. Ở đầu bên kia của đại dương, Hoa Kỳ đã dang rộng vòng tay.
