“Nam Nê Loan, một nơi tươi đẹp, hoa nở khắp núi đồi…” Giai điệu quen thuộc và những lời ca lãng mạn này đã khắc sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ người Trung Quốc, vẽ nên một bức tranh về những người lính Bát Lộ quân cần cù, khai hoang sản xuất, tự lực cánh sinh trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Thế nhưng, đằng sau những lời ca du dương đó lại là một sự thật đen tối, một bí mật mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cố gắng che giấu suốt nhiều thập niên: Nam Nê Loan không phải là cánh đồng lúa mạch, mà là một vựa thuốc phiện khổng lồ. Và Lữ đoàn 359 anh hùng không phải là những người nông dân mặc quân phục, mà là những kẻ gieo rắc “cái chết trắng” để phục vụ cho mục tiêu cách mạng.
[MC] xin kính chào quý vị. Trong chương trình hôm nay của ‘Phân tích và Bình luận’, chúng ta sẽ cùng tác giả Giang Phong lột trần lớp vỏ tuyên truyền hào nhoáng để phơi bày một trong những chương sử ô nhục nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng ta sẽ tìm hiểu xem, tại sao một chính đảng luôn tự nhận là tiên phong, đạo đức lại có thể biến mình thành một tổ chức buôn bán ma túy quy mô lớn? Ai là người đã ra quyết định, và guồng máy tội ác đó đã vận hành như thế nào để rồi sau này, nó lại được ngụy tạo thành một bản anh hùng ca bất hủ?BÊN BỜ VỰC SỤP ĐỔ VÀ “BA NGỌN LỬA” CỨU MẠNG
Câu chuyện của chúng ta bắt đầu vào đầu năm 1941. Lúc này, mâu thuẫn giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản TQ tại các khu vực Giang Tô, An Huy ngày càng trở nên gay gắt. Tân Tứ quân của Đảng Cộng sản TQ đã kiên quyết quán triệt chỉ thị của Mao Trạch Đông: “bảy phần phát triển, hai phần đối phó, một phần kháng chiến”. Trong tiến trình mở rộng địa bàn, họ đã xung đột quân sự với quân đội Quốc Dân Đảng tại địa phương, cuối cùng dẫn đến sự bùng nổ của “Sự biến Hoàn Nam”.
Sự kiện này đã khiến Quốc-Cộng hoàn toàn trở mặt. Chính phủ Quốc Dân, trong cơn tức giận, đã ra lệnh ngừng cấp kinh phí cho lực lượng của Đảng Cộng sản TQ. Ngay lập tức, Đảng Cộng sản rơi vào tình trạng khó khăn tài chính cùng cực. Theo lời của Mao Trạch Đông lúc đó, “Ủy viên trưởng Tưởng không cho chúng ta ăn cơm nữa rồi, không phát phiếu ăn nữa.”
Trên thực tế, ngay cả khi chính phủ Quốc Dân có cấp phát quân lương cho Bát Lộ quân đúng hạn và theo tiêu chuẩn ban đầu, thì đó cũng chỉ là muối bỏ bể. Tại sao vậy? Bởi vì Bát Lộ quân thời điểm đó đã không còn là một hai vạn người như thời Hồng quân ở Thiểm Bắc nữa, mà đã bành trướng lên đến hàng chục vạn người. Miệng thì tuyên truyền “Đại đao chém đầu quân Nhật”, nhưng kết quả là quân Nhật chưa bị chém bao nhiêu nhát đao, thì quân số của Bát Lộ quân và Tân Tứ quân lại ngày càng đông. Kẻ địch lớn trước mắt, nhưng mục tiêu thực sự lại là tích trữ lực lượng.
Để giải quyết vấn đề lương thực và tiền bạc, Đảng Cộng sản TQ đã đốt “ba ngọn lửa”.
Ngọn lửa thứ nhất, họ tổ chức các “đoàn công tác trưng thu lương thực” xuống nông thôn. Nghe cái tên thì rất kêu, nhưng thực tế là gì? Họ vác súng đặt thẳng lên bếp lò của nhà dân. Người nông dân đành phải “tự nguyện” nộp lương thực ra. Có thể không tự nguyện được sao, khi họng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào nồi cơm của gia đình mình?
Ngọn lửa thứ hai, họ tổ chức quân đội đi khai thác và buôn bán muối. Thời chiến, chính phủ Quốc Dân kiểm soát rất chặt chẽ các mặt hàng đặc biệt như muối. Đảng Cộng sản đã vận chuyển muối từ khu vực biên khu của họ vào, bán với giá cao gấp đôi, làm náo loạn và đẩy giá cả toàn bộ thị trường lên cao.
Và ngọn lửa thứ ba, đây là ngọn lửa cháy to nhất, và cũng là ngọn lửa bí ẩn nhất. Đó là chính quyền biên khu đứng ra thống nhất kinh doanh cái gọi là “thổ đặc sản”. Tại sao kinh doanh thổ đặc sản mà lại phải thần bí như vậy? Có điều gì cần phải che giấu người khác ư? Hóa ra, “thổ đặc sản” chính là mật danh của việc Bát Lộ quân bí mật trồng và kinh doanh thuốc phiện. Để tiện cho việc giao dịch, Đảng Cộng sản không gọi nó là thuốc phiện, mà gọi là “hàng nội địa”, “hàng đặc biệt”. Sau này, vì thuốc phiện nấu chín thường được đóng thành từng bánh, từng thỏi, nên họ lại gọi nó là “xà phòng”. Cuối cùng, cái tên chính thức được định danh là “thổ đặc sản”.
BỨC THƯ KHEN CỦA CHU ĐỨC VÀ NỖI LO “THAM Ô HỦ HÓA”
Ngày 20 tháng 6 năm 1941, Chu Đức đã gửi một bức thư để động viên hai trung đoàn 717 và 718 thuộc Lữ đoàn 359 của Bát Lộ quân. Trong thư, ông biểu dương thành tích mà hai trung đoàn này đã đạt được trong phong trào sản xuất, đồng thời yêu cầu họ phải luôn ghi nhớ lợi ích của nhân dân, phải nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, không được tham ô, hủ hóa.
Chính câu cuối cùng trong bức thư khen này của Chu Đức, “nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, không được tham ô, hủ hóa,” đã vô tình làm lộ ra manh mối. Thử hỏi, nếu Lữ đoàn 359 thực sự chỉ đi khai hoang trồng lúa, trồng ngô như tuyên truyền, thì mấy xe lúa mì đó có đủ để khiến người ta hủ hóa hay không? Có gì đáng để tham ô? Rõ ràng, ngay cả Tổng tư lệnh Chu Đức lúc đó cũng có những nỗi lo lắng của riêng mình. Bởi vì thứ mà họ đang sản xuất không phải là lương thực thông thường. Đối với những người cộng sản lúc đó, thuốc phiện chính là “vốn liếng cách mạng”.
Dĩ nhiên, buôn bán thuốc phiện là một việc làm vô cùng thất đức. Ngay trong nội bộ chính quyền biên khu cũng luôn có người phản đối việc kinh doanh “thổ đặc sản”. Trong đó có cả Cao Cương, Tư lệnh Biên khu Thiểm-Cam-Ninh lúc bấy giờ. Cao Cương vốn là “rắn đầu đàn” ở địa phương, vì khu căn cứ địa đỏ Thiểm-Cam-Ninh là do ông ta cùng với Lưu Chí Đan và Tập Trọng Huân (cha của Tập Cận Bình) gây dựng nên. Ông ta đã thẳng thắn nêu ý kiến rằng: “Thà chết đói chứ không thể làm cái nghề thất đức này.”
“MINH TU SẠN ĐẠO, ÁM ĐỘ TRẦN THƯƠNG” – SỰ LỰA CHỌN CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG
Trước sự phản đối trong nội bộ, tháng 2 năm 1942, Mao Trạch Đông đã cho triệu kiến một người, đó là Nam Hán Thần, người phụ trách công tác kinh tế. Mao Trạch Đông hỏi ông ta: “Về việc kinh doanh thổ đặc sản, là do ta chủ trương, ngươi thực hiện. Hiện nay có người phản đối, ý kiến phản đối còn rất gay gắt. Ngươi nói xem có nên tiếp tục làm nữa không?”
Nam Hán Thần liền trả lời: “Chúng ta đã nghĩ hết mọi cách ‘minh tu sạn đạo’ (sửa đường công khai), tức là đi buôn muối. Nhưng chỉ làm nghề bán muối, thu chi tài chính năm 1941 vẫn thâm hụt tới 40%. Bây giờ ngài hỏi kế toán một đồng cũng không có. Biên khu có hơn 5 vạn quân, còn có các cơ quan, trường đảng, một đống trường học, lấy gì để sống? Chúng ta không thể không ‘ám độ Trần Thương’ (bí mật đi đường khác).” “Trần Thương” ở đây chính là việc trồng và buôn bán thuốc phiện.
Nghe xong, Mao Trạch Đông liền bày tỏ: “Ý kiến của ngươi rất hay. Vậy chúng ta phải nói rõ cho nhân dân, chúng ta làm như vậy là vì kháng Nhật, là vì cách mạng.” Nhờ mấy lời nói trung thành và hợp ý Mao Trạch Đông này, sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập chính quyền, Nam Hán Thần đã được bổ nhiệm làm Thống đốc đầu tiên của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.
Thuốc phiện có giá trị cực kỳ cao. So với giá cả thời đó, một cân thuốc phiện tương đương với hơn 5.300 cân kê. Theo tiêu chuẩn cung cấp lương thực ở Diên An lúc bấy giờ, mỗi người mỗi ngày ăn một cân tư lương thực. Cứ theo tiêu chuẩn này tính toán, 1.000 cân thuốc phiện có thể giải quyết vấn đề lương thực cho 1 vạn người trong một năm.
Thấy được lợi ích khổng lồ, Mao Trạch Đông đã gật đầu đồng ý cho trồng thuốc phiện trên quy mô lớn. Và địa điểm được chọn chính là Nam Nê Loan.
NAM NÊ LOAN: TỪ RỪNG HOANG ĐẾN “VỰA VÀNG ĐEN”
Nam Nê Loan nằm ở đâu? Nó cách thành Diên An, tỉnh Thiểm Tây 45 km về phía Đông Nam. Đây là một thung lũng hẹp có khe suối, có nguồn nước, nhiệt độ và độ ẩm tương đối tốt. Nơi đây từng có một khu rừng nguyên sinh, là khu rừng nguyên sinh duy nhất ở vùng Diên An, rất ít người ở, thậm chí còn có cả sói hoang.
Sau khi Lữ đoàn 359 của Vương Chấn tiến vào khu vực này, họ bắt đầu chặt cây, đốt rừng, biến toàn bộ khu rừng thành tro bụi để bắt đầu trồng thuốc phiện trên diện rộng. Ngoài ra, khu vực đóng quân của Sư đoàn 120 do Hạ Long chỉ huy cũng là một trong những nơi cung cấp thuốc phiện chủ yếu.
Trong một thời gian ngắn, việc kinh doanh thuốc phiện đã trở thành một cao trào, hình thành cả một chuỗi ngành nghề khép kín. Người lính nổi tiếng Trương Tư Đức, người sau này được Mao Trạch Đông ca ngợi là tấm gương “chết vì nhân dân”, cùng với các đồng đội của mình trong Trung đoàn Cảnh vệ Trung ương, cả ngày bận rộn với việc nấu và cô đặc thuốc phiện.
Các nơi sản xuất thuốc phiện đều thành lập công ty tiêu thụ. Tại các khu vực giáp ranh với vùng Quốc Dân Đảng kiểm soát, các cửa hàng mọc lên như nấm để tiện cho việc buôn bán. Hàng từ bên này đưa vào, bên kia liền xuất đi. Cục Hậu cần của Sư đoàn 120 có một cửa hàng tên là “Tấn-Tùy Quá Tải Trạm” (Trạm trung chuyển Sơn Tây – Tuy Viễn). Bộ chỉ huy Lữ đoàn 359 cũng có cửa hàng riêng, gọi là “Đại Quang Điếm”. Trung đoàn Cảnh vệ Trung ương, vốn trực tiếp nấu thuốc phiện, dĩ nhiên cũng có cửa hàng của mình mang tên “Dân Hưng Điếm”. Chính quyền Biên khu Thiểm-Cam-Ninh cũng không chịu thua kém, họ cũng tự mở cửa hàng, tích cực bán thuốc phiện.
Theo cuốn “Tài liệu Lịch sử Tài chính Kinh tế” tập 4, trang 73 ghi lại, từ ngày 15 tháng 8 đến ngày 30 tháng 11 năm 1941, tức là chỉ trong hơn ba tháng, đã bán ra 3.000 cân thuốc phiện. Đến năm 1942, con số này tăng vọt lên 31.200 cân. Năm 1943, bán được tổng cộng 36.000 cân thuốc phiện.
Việc bán thuốc phiện đã trực tiếp đổi lại được pháp tệ, vàng bạc và các nhu yếu phẩm. Các nhu yếu phẩm này bao gồm bông, sợi, vải, các sản phẩm công nghiệp quân sự, và thiết bị viễn thông, đáp ứng mọi nhu cầu cấp bách của biên khu. Nhờ dùng độc phẩm đổi lấy hàng hóa từ vùng Quốc Dân Đảng kiểm soát, họ đã có được một cuộc sống “cơm no áo ấm”.
NHÂN CHỨNG SỐNG TỪ MOSCOW VÀ CUỘC ĐỐI CHẤT NẢY LỬA
Có một ghi chép rõ ràng về việc Đảng Cộng sản Trung Quốc trồng và bán thuốc phiện ở Diên An đến từ một nguồn không thể chối cãi: Quốc tế Cộng sản. Đặc phái viên của Moscow tại Diên An lúc đó là Peter Vladimirov. Ông đã viết một cuốn sách có tên là “Nhật ký Diên An”, trong đó ghi lại một cách rõ ràng tình hình trồng và buôn bán thuốc phiện ở Diên An.
Ông viết: “Giao dịch thuốc phiện phi pháp diễn ra ở khắp nơi… Sư đoàn 120 ở hậu phương (tức sư đoàn của Hạ Long) dành hẳn một ngôi nhà để gia công nguyên liệu, chế biến thành thuốc phiện rồi từ đây vận chuyển thẳng ra thị trường.”
Trong một lần, Vladimirov đã bước vào khi các lãnh đạo Bộ Chính trị đang họp. Ông đã chất vấn thẳng thừng Mao Trạch Đông: “Trước đây, nông dân trong đặc khu buôn bán thuốc phiện phi pháp thì bị trừng phạt nghiêm khắc. Giờ thì hay rồi, quân đội và cơ quan do Đảng Cộng sản TQ lãnh đạo lại công khai sản xuất thuốc phiện. Rốt cuộc chuyện này là thế nào?”
Đối mặt với câu hỏi hóc búa từ đặc phái viên của Liên Xô, Mao Trạch Đông cũng không tiện nổi nóng. Ông chỉ ngồi thụp xuống một chiếc ghế dài, không nói một lời, lẳng lặng móc bao thuốc lá ra, tự mình cuốn một điếu rồi rít lên, chìm trong im lặng.
Thấy tình hình căng thẳng, Đặng Phát, người ngồi bên cạnh, bắt đầu lên tiếng. Đặng Phát là người Quảng Đông, từng tổ chức cuộc bãi công lớn ở Hồng Kông và Quảng Châu, sau đó trong một thời gian dài giữ chức trùm mật vụ của chính quyền Xô viết. Ông ta nói: “Trước đây, chúng ta chở từng xe muối lớn đi bán, chỉ mang về được một túi tiền, mà lại là túi tiền lép kẹp. Bây giờ, chúng ta gửi đi một túi thuốc phiện, có thể mang về cả một xe đầy tiền. Chúng ta dùng số tiền này để mua vũ khí của Quốc Dân Đảng, rồi quay lại dùng chính vũ khí đó để đánh họ.”
Ông ta còn nói thêm: “Đồng chí Mao Trạch Đông nói, trong tình hình hiện nay, thuốc phiện là đội quân tiên phong của cách mạng, là thuốc phiện cách mạng. Cả Bộ Chính trị chúng tôi đều ủng hộ đồng chí ấy.”
BÀI CA RỬA TỘI VÀ DI SẢN DỐI TRÁ
Trong cùng thời kỳ đó, ở vùng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, Quốc Dân Đảng đang làm gì để nâng cao phẩm chất của người dân? Họ đang phát động “Phong trào Đời sống Mới”, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu thực hiện lệnh cấm thuốc phiện một cách nghiêm ngặt. Thế nhưng, Diên An lại hợp pháp hóa việc sản xuất và buôn bán thuốc phiện, tuồn thứ độc dược này vào các vùng do Quốc Dân Đảng kiểm soát và các vùng bị Nhật chiếm đóng để đầu độc đồng bào của mình.
Sau này, khi đã giành được chính quyền, họ lại viết lại lịch sử, biến việc sản xuất thuốc phiện rầm rộ năm xưa thành “Phong trào Đại sản xuất kháng Nhật”.
Ngày nay trên thế giới, các quốc gia độc tài như Triều Tiên, các tổ chức cực đoan, khủng bố như Nhà nước Hồi giáo (ISIS), hay Afghanistan, tất cả đều đã lựa chọn con đường nhân danh quốc gia để tổ chức trồng và buôn bán ma túy nhằm vượt qua cơn nguy khốn của mình. Chỉ có điều, những quốc gia và khu vực kể trên vẫn còn thiếu một chút “trình độ”. Họ thiếu cái gì? Họ thiếu việc dùng hình thức nghệ thuật, dùng những bài ca cách mạng kinh điển như “Hoa trong giỏ thơm ngát” để tô son trát phấn cho một lịch sử thuốc phiện khó nói. Họ hát rằng “Nam Nê Loan là một nơi tươi đẹp, hoa tươi nở khắp núi đồi… Lữ đoàn 359 là tấm gương, chúng ta cùng tiến lên…”.
***
