Xem lại Phần 1

Quá trình phát triển ‘Thành, Trụ, Hoại’ của nghệ thuật cận đại

Mặc dù châu Âu bị thống trị bởi các bộ tộc ngoại lai trong thời Trung cổ, nhưng các đế chế này lại tiếp nhận Cơ đốc giáo, vì vậy các nghệ thuật gia trong thời Trung cổ đa phần đều vì vinh quang của Thần mà lặng lẽ cống hiến. Tuy nhiên, do sự hủy diệt của những nền văn minh trước, nghệ thuật thời trung cổ cơ bản nằm trong quá trình tìm tòi từ tàn tích của nền văn minh trước, và phải đến thời kỳ văn hóa Phục hưng, nghệ thuật mới từng bước trưởng thành. Trong thời kỳ này, nó đã nhiều lần được tiếp xúc với mỹ thuật tạo hình của Cơ Đốc giáo trong giai đoạn sơ khai, nghệ thuật kiến trúc Romanesque và nghệ thuật Gothic; từ phong cách trang trí theo kiểu dáng phẳng, dần dần hướng tới phong cách tả thực tự nhiên, báo hiệu thời điểm bắt đầu của văn hóa phục hưng. Giai đoạn phát triển này chính là sự tái xuất hiện một lần nữa thời kì “Thành” của nghệ thuật nhân loại.

Thành’ – thời kỳ Phục hưng văn hóa

Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 ở Châu Âu đã chứng kiến ​​một bước nhảy vọt và phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy trên phương diện nghệ thuật, tạo ra một thời kỳ vĩ đại trong quá trình mở rộng kiến thức và sự sáng tạo, được gọi là “thời kỳ văn hóa Phục hưng”. Trong vòng chưa đến hai trăm năm ngắn ngủi, nghệ thuật của nhân loại từ bước chưa hoàn thiện đã đạt đến đỉnh cao của sự thành thục

Thời kì Phục hưng đã có những thành tựu đáng kể về kiến ​​trúc, điêu khắc, hội họa và các nghề thủ công;  đặc biệt trong hội họa, kỹ nghệ của nhân loại đã thiên về trường phái tả thực trước nay chưa từng có: việc sử dụng phương pháp thấu thị tạo ra hiệu quả không gian giống y như thật, nghiên cứu về giải phẫu thân thể con người đã đạt đến mức độ chuẩn xác của kết cấu nhân thể, việc cải tiến chất liệu sơn dầu đã góp phần thúc đẩy về mặt cảm nhận đối với độ tinh tế và chi tiết của vật thể, mà việc nắm vững và thuần thục độ tương phản giữa sáng và tối cũng khiến cho thể tích và cảm giác về khối lượng của vật thể trở nên tự nhiên chân thực hơn.

Kể từ khi con người một lần nữa phát hiện ra vẻ đẹp của nghệ thuật cổ đại Hy Lạp và La Mã, người ta mới khởi xướng học hỏi các nguyên tắc của mỹ học cổ điển để đạt được các kỹ năng thể hiện ra sự hợp lý, hài hòa, chính xác và chân thực. Cùng với hiện thực là chủ nghĩa nhân văn đề xướng tinh việc lấy con người làm trung tâm, các nghệ thuật gia học cách quan sát thiên nhiên để thể hiện nó một cách thực tế, hơn nữa còn dùng phương pháp tả thực để mô tả điển tích về các vị thần trong tôn giáo, thu hẹp khoảng cách giữa các vị thần và con người.

Vì vậy, xét về nội hàm sáng tạo nghệ thuật Phục hưng, đối với tín ngưỡng vào Thần và việc tìm tòi nghiên cứu, tìm lại nguồn gốc của sự mỹ hảo trong nghệ thuật cổ điển Hy Lạp, La Mã đã đảm bảo giá trị tích cực trong việc hướng tới cái thiện mỹ trong sáng tạo nghệ thuật; nó đã xây dựng lại tinh thần cổ điển và hình thức hoàn hảo cho nền văn minh nhân loại hiện đại, đồng thời một lần nữa thiết lập nên chuẩn mực cùng với tiêu chuẩn đo lường về nghệ thuật cho các thế hệ tương lai.

Mọi người thường coi những thành tựu của 3 họa sĩ nổi tiếng là Da Vinci, Michelangelo và Raphael là đồng thời tồn tại cùng với thời kỳ đỉnh cao của văn hóa phục hưng. Những tác phẩm của họ vẫn được coi là những tác phẩm kinh điển vượt trội so với cả thời đại ngày nay. Những nhà nghệ thuật gia này đồng thời cũng dẫn dắt nghệ thuật nhân loại hướng đến sự trưởng thành, để mọi người nhận thức được thế nào là cái đẹp, thế nào là nghệ thuật và làm thế nào để hoàn thành tác phẩm.

Leonardo da Vinci, “Bữa ăn tối cuối cùng”, được sáng tác năm 1498, 460 x 880 cm, nhiều thủ pháp, bích họa trong phòng ăn của Tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý. (theo Wikipedia)

Michelangelo khiến người xem phải sửng sốt trước vẻ đẹp cường tránh và nam tính của cơ thể con người. Ông cho rằng con người là hình tượng hoàn mỹ nhất mà Thần đã ban tặng, nhưng cũng là xiềng xích của linh hồn tại thế gian này, vì vậy ông đã lấy thân thể con người làm đề tài duy nhất để sáng tác ra một tác phẩm vĩ đại có một không hai. Michelangelo mặc dù có ít tác phẩm là tranh sơn dầu, nhưng kết cấu cơ thể người mà ông vẽ rất rõ ràng và cứng rắn, về phần bộc lộ ra thần thái có thể nói là đã đạt tới đỉnh cao, có ảnh hưởng sâu sắc và to lớn đến tranh vẽ của các thế hệ sau. Các bức bích họa “Sáng thế ký” và “Thẩm phán cuối cùng” trong nhà thờ Sistine, Thiên Chúa sáng tạo trời đất và nhân loại, nguồn gốc tội lỗi và sự sa đọa của con người, các lời tiên tri và điềm báo trước, cho đến sự giáng lâm của chúng Thần trong thẩm phán tối hậu, biểu hiện ra những áng thơ vĩ đại của vũ trụ và lịch sử loài người. Trong cấu trúc hùng vĩ, mọi người nhìn thấy sự uy nghiêm và vĩ đại của Thần, cùng với thiên lý thiện ác hữu báo, ảnh hưởng sâu sắc đến họ mà từ đó khơi gợi và truyền cảm hứng. Những thành tựu của Michelangelo càng khẳng định vị trí quan trọng không thể thay thế của hội họa miêu tả nhân vật trong việc thể hiện những ý nghĩa tinh thần và đạo đức cao thượng.

Những bức bích họa trên mái vòm nhà thờ Sistine của Michelangelo: “Sáng thế kí”. (Shutterstock)
Một phần bức bích họa “Sáng thế kí” trên mái vòm nhà thờ Sistine của Michelangelo: “Sáng tạo Adam”. (Shutterstock)

Bức Madonna và Đứa trẻ do Raphael tạo ra nổi tiếng vì vẻ đẹp tĩnh lặng, toát lên vẻ rực rỡ thánh khiết trong bức họa. Khi trưởng thành, Raphael tiếp thu trí tuệ và kinh nghiệm của những người đi trước: Ngoài việc kế thừa cách phác thảo và cấu trúc của các họa sĩ Florentine, ông còn nắm vững kết cấu tinh tế của các bức tranh sơn dầu tại  Bắc  Âu; học cách sắp đặt tiết tấu và trật tự trong hình tượng lớp nhân vật từ Da Vinci, lại học kết cấu và khí thế hùng tráng của cơ thể người từ Michelangelo; có thể nói ông người hội tụ những tinh hoa của hội họa trong thời Phục Hưng.Tranh của ông có cơ sở hoàn hảo là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và sự trang trọng, lại có thể kết hợp với hơi hướng thời đại để tạo nên những hình tượng sống động, giàu tính nhân văn và khuếch trương giống như được soạn sẵn theo một kịch bản. 

Raphael, Học viện Athens. (theo Wikipedia)

Tất nhiên, thời kỳ hoàng kim của văn hóa phục hưng cũng bao gồm những đóng góp to lớn bằng sự tinh tế và nghiêm túc của các nghệ thuật gia phương Bắc cùng với sự thay đổi màu sắc phong phú từ các họa  sĩ Venice, họ đều là những người góp phần làm cho diện mạo trong nghệ thuật thời kỳ Phục hưng càng thêm phần phong phú và hoàn thiện.

Tác phẩm “Đám cưới của Arnolfini” của họa sĩ người Hà Lan Van Eyck, người đã đặt nền móng cho chất liệu sơn dầu. (theo Wikipedia)

‘Trụ’- Từ thời Phục hưng đến thế kỷ 19

Một khi nghệ thuật của thời kỳ Phục hưng đạt đến đỉnh cao thì sẽ trở thành kiệt tác, nó gần như sẽ định hình phương diện nghệ thuật cho các thế hệ sau. Thời đại nào cũng xuất hiện nhân tài, trong hai trăm năm tiếp theo, trình độ nghệ thuật có thể nói là đã được duy trì ở một mức độ nhất định sau khi trưởng thành.

Chỉ khi lấy sự hợp lý của tinh thần cổ điển, hình thức hoàn mỹ, chuẩn xác và chặt chẽ làm chuẩn mực để sáng tác thì tại các thời kỳ và khu vực khác nhau, có sự khác biệt do nền tảng văn hóa, xu hướng tư tưởng và phong tục tập quán xã hội khác nhau. Ví dụ, trong thời kỳ Baroque nhấn mạnh sự cường điệu và tránh lệ, kích thích cảm xúc mạnh mẽ vào tôn giáo và những nét vẽ như chực trào dâng, cùng với tinh thần cổ điển của Apollo, cũng có thể nói rằng nó cũng  gần với niềm đam mê với Dionysian. Cũng do kích thước của tranh vẽ được mở rộng, khiến cho nét cọ trở nên nhẹ nhàng hơn và các chi tiết phụ trong bức tranh có thể được đơn giản hóa. Phong cách Rococo phản ánh lối sống hưởng thụ sa đọa của giới quý tộc thời bấy giờ.

Các quốc gia Công giáo thời kỳ Baroque nhấn mạnh đến việc thể hiện cảm xúc trong tôn giáo. Bức tranh vẽ “Phúc âm của thánh Matthew” do Caravaggio vẽ (theo Wikipedia)
Hội họa Baroque thường hướng đến cảm xúc mạnh mẽ và sống động  về nội dung. Bức tranh “The Rape of the Daughters of Lucipas” của Rubens. (theo Wikipedia)
Hội họa phong cách Hà Lan thế kỷ 17: “Cô gái dệt vải của Vermeer”   
(theo Wikipedia)

Trường phái Tân cổ điển xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 là sự tái vận dụng thẩm mỹ và nghệ thuật của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Dưới bầu không khí của chủ nghĩa lý tính và sự hào hứng khi giới khảo cổ phát hiện thành cổ Pompeii, nhiều tác phẩm lấy chủ đề là Hy Lạp và La Mã cổ đại đã xuất hiện, thể hiện sự hoàn mỹ về cân đối và trang trọng trong lý tưởng.

Hội họa trường phái tân cổ điển: David (Jacques-Louis David) “Anh em nhà Horace” (Le Serment des Horaces). (theo Wikipedia)

Tuy nhiên do cuộc đại cách mạng đã gây ra sự hỗn loạn đến tình hình thế giới, cùng với sự cổ súy cho tự do và phóng đại bản thân, vì vậy mà chủ nghĩa lãng mạn nhanh chóng trỗi dậy và thay thế: Bố cục hỗn loạn và không ổn định, màu sắc mạnh mẽ cùng với nét vẽ thô ráp, những vụ đồ sát kích động về tình cảm, những cảnh thảm họa… Phong cách hội họa một lần nữa lại hướng đến thứ tình cảm mãnh liệt và buông thả của Dionysian. Trên thực tế, từ một số chi tiết của một số bức tranh mà đánh giá, sự khác biệt giữa trường phái cổ điển và lãng mạn không chỉ ở phong cách bề ngoài, đối với yêu cầu về mức độ của các kỹ năng cơ bản cũng có một số khác biệt.

Ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn tiếp tục mở rộng sang chủ nghĩa hiện thực, trong đó “chủ nghĩa hiện thực” không phải đề cập đến thủ pháp, mà là sự khắc họa trung thực đối với các hiện tượng trong xã hội và con người, sự vật. Ví dụ như họa sĩ người Pháp là Courbet đã từng nói: “Tôi chỉ vẽ những gì mắt thấy.” Tuy nhiên, trước ảnh hưởng nghiêm trọng của các vấn đề xã hội  cùng với sự suy đồi về đạo đức lúc bấy giờ, điều này khiến cho các họa sĩ chủ yếu lấy đề tài từ những thứ không lành mạnh và đen tối trong bản chất con người, không còn đề cao vẻ đẹp lý tưởng. Tuy nó phản ánh hiện thực xã hội, nhưng nếu nghệ thuật quá chú trọng những hiện tượng tiêu cực, đánh mất đi những theo đuổi về tính thiện lương và vẻ đẹp hoàn mỹ, thì nó sẽ không có năng lực thăng hoa về nhân tâm, và tác động của nó đối với xã hội cũng sẽ tiêu cực.

Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực cũng tạo tiền đề cho sự ra đời của trường phái ấn tượng sau này.

“The Swing” của Fragonard thuộc phong cách Rococo phù phiếm và thanh mảnh. (phạm vi công cộng)

‘Hoại’ – từ giữa thế kỷ 19 đến thời hiện đại

Vào những năm 1870, trường phái Ấn tượng đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử nghệ thuật giữa những tranh cãi, đồng thời cũng tuyên bố sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện đại.

Nhiều người cho rằng trường phái Ấn tượng đã mang lại sự tiến bộ về thủ pháp và hình thái ý thức cho hội họa. Mặc dù trường phái Ấn tượng vay mượn các lý thuyết và thuật ngữ trong nghệ thuật, nhưng trên thực tế, việc phân tách ánh sáng màu dựa trên cảm nhận chủ quan cá nhân khi sáng tạo không thực sự “khoa học” và “hợp lý” như vậy. Hơn nữa, khi các họa sĩ trường phái ấn tượng đặt các màu sắc cạnh nhau và độ tương phản theo cách nhảy vọt, họ cũng đã hy sinh kết cấu, cảm xúc và cơ thịt của vật thể, và bước vào một trải nghiệm thị giác mơ hồ, mờ nhạt, không rõ ràng, trên thực chất đó cũng là một sự thể nghiệm phi lý tính thuộc về khái niệm Dionysian. Kể từ đó, các họa sĩ ngày càng đề cao cảm xúc chủ quan, cố gắng theo đuổi phong cách cá nhân, còn cố ý thoát ly khỏi truyền thống. Kết quả là, các khái niệm về không gian, độ tương phản sáng tối, kết cấu cơ thể con người do các nghệ thuật gia thiết lập từ thời Phục hưng dần dần bị tan rã, thậm chí hoàn toàn bị vứt bỏ. Ngoài ra, các họa sĩ cho rằng nghệ thuật phải “độc lập”, xem các giá trị đạo đức mang tính mô tả hoặc tượng trưng như một sự ràng buộc đối với nghệ thuật, dẫn đến kết quả là các bức tranh chỉ tập trung vào hiệu ứng bề mặt mà bỏ qua nội hàm bên trong.

Trên thực tế, thứ mà trường phái ấn tượng và nghệ thuật hiện đại sau này vứt bỏ chính là trí tuệ và kinh nghiệm tích lũy hàng trăm năm của lớp người đi trước, thứ nghệ thuật chính thống mà phương Tây tự hào và có giá trị to lớn nhất, kỹ năng tả thực, vẻ đẹp lý tưởng nội hàm cao quý.

Nếu chúng ta so sánh một cách công bằng hai tác phẩm của các nhân vật đương thời: Một là tác phẩm của Bouguereau, một danh họa sư luôn kiên trì theo tinh thần cổ điển, và bên kia là một là tác phẩm của Renoir theo trường phái ấn tượng, hiển nhiên là giữa hai loại về cấu trúc, đường nét, cảm nhận và cách xử lý màu sắc của cơ thể con người có sự khác biệt vô cùng to lớn, cảm thụ về tác phẩm cũng khác nhau. Cho dù sở thích cá nhân có thể khác nhau nhưng xét về kỹ xảo mà nói thì cái được thực hiện càng chính xác, nghiêm cẩn, độ khó càng cao, càng tiếp cận gần hơn với sự hoàn mỹ? Mới thực sự tương đối tiến bộ?

Bức tranh “Cô gái và bình nước” của họa sĩ trường phái ấn tượng Renoir (trái) được so sánh với bức  “Bài học khó” của bậc thầy về cổ điển Bouguereau. (theo Wikipedia / Châu Di Tú tổng hợp)

‘Diệt’…? Sứ mệnh và lối thoát của nghệ thuật

Nghệ thuật là tấm gương phản chiếu thời đại, phản ánh chân thực những giá trị, thẩm mỹ của con người đương thời. Vì vậy, trong thời đại đạo đức bị trượt dốc, thị phi bất phân thì cũng không có gì là lạ khi thứ xấu ác lại được khen tụng, điều mỹ hảo thì bị coi thường. Kể từ khi nền văn minh nhân loại phát triển đến nay, vấn đề sinh tồn cũng đang gặp phải nguy cơ lớn: thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng, đạo đức xã hội xuống cấp, hỗn loạn xảy ra thường xuyên. Dưới bối cảnh như vậy, nghệ thuật hiện đại đã mất chuẩn mực sẽ đi về đâu, liệu có đáng để chúng ta phải suy ngẫm?

Bản tính con người luôn khao khát những gì trong sáng, tốt đẹp, nếu như có thể tìm về thiện lương và hướng đến những giá trị tích cực thì nghệ thuật vẫn có cơ hội để phục hồi. Những người nghệ sĩ có lý tưởng và kỹ năng, nếu có thể hiểu rõ sứ mệnh của mình, kiên trì vào lý tưởng nghệ thuật và tu dưỡng đạo đức cá nhân, đồng thời quay trở lại con đường nghệ thuật chính thống, đây là lối thoát chân chính cho những nguy cơ của nhân loại.

Theo Epoch Times
Toàn Kan biên dịch