Có sự mâu thuẫn gay gắt giữa nghệ thuật hiện đại và nghệ thuật truyền thống. Phái hiện đại cho rằng: “Nghệ thuật là chủ quan, không có tiêu chuẩn tuyệt đối tốt hay xấu” cùng với đó là quan niệm: “Sáng tạo nghệ thuật là miễn phí và không nên chịu bất kỳ hạn chế nào”. Nhưng đây cũng là một cơ hội tốt để nhìn lại những giá trị của nghệ thuật truyền thống.

“Đổi mới” và “đột phá”?

Quả thật, trong xu hướng phát triển tưng bừng của nghệ thuật hiện đại, bất kể từ nội dung, phương tiện biểu hiện đến truyền thông, có thể nói rằng không có bất kì điều gì là bị cấm kỵ.

Bất kỳ vấn đề gây tranh cãi nào liên quan đến nghệ thuật hiện đại đều được quy cho khả năng cảm thụ của đôi mắt và tâm hồn; bất kỳ kỹ thuật biểu hiện kỳ cục nào cũng có thể được “hiểu” và đánh giá cao với cái mác “đổi mới” và “đột phá”. Những người không thể hiểu được loại hình nghệ thuật hiện đại tiên phong có thuộc tính “cao thâm khó lường” này thì phải khiêm tốn và cố gắng học hỏi để nhận thức được nó. Các nhà phê bình nghệ thuật phải có thể đào sâu vào logic của tư duy hiện đại và kết hợp với các phương tiện truyền thông để thiết lập những thể loại phê bình nghệ thuật mới.

Mặc dù nghệ thuật hiện đại cũng có những tác phẩm với sự khéo léo, mang vẻ đẹp hoặc ý nghĩa tích cực, nhưng xu hướng phát triển của toàn bộ nghệ thuật đã thực sự chuyển sang một trạng thái hỗn loạn không có tiêu chuẩn và giá trị nội hàm. Khi xem những tác phẩm thuộc nghệ thuật hiện đại, nhiều người không thực sự yêu thích hay cảm động trong tim. Nhưng trào lưu đã là như vậy, không  thuận theo thì sẽ bị gạt ra. Và cho dù bạn đang tham gia vào nghiên cứu học thuật hay tham gia sáng tạo nghệ thuật, nếu bạn không vận dụng đến một số lý thuyết hoặc kỹ thuật hiện đại, bạn sẽ bị đánh đồng là thuộc trường phái bảo thủ.

Vậy thì, có bất kỳ giá trị tiêu chuẩn hoặc phổ quát trong nghệ thuật không?

Trong quá khứ, mọi người đều biết rằng nghệ thuật theo đuổi “sự thật, lòng tốt và vẻ đẹp”. Từ nghĩa gốc của từ “nghệ thuật”, tiêu chuẩn đó cũng khá rõ ràng. Nghệ thuật trong tiếng Anh được gọi là Fine Arts (tiếng Pháp: Beaux Arts), trong đó từ “art” nghệ thuật có nguồn gốc từ chữ “ars” Latinh, có nghĩa là “kỹ thuật”, “thủ công”. “Fine” mang ý nghĩa là cái đẹp, tinh tế, tốt, vì vậy nghệ thuật hẳn là nhằm “tạo ra sản phẩm thủ công tinh xảo, đẹp đẽ”. Mà kỹ thuật là cái khó, nó có yêu cầu về “kỹ năng cơ bản.” Nghệ thuật là sự biểu hiện cái đẹp, biểu hiện là cái thiện, sự thật phải được thể hiện, nó khiến người ta dễ chịu và thăng hoa, vì vậy nó có tác dụng giáo dục rất lớn.

Từ quy luật của vũ trụ, bất cứ điều gì phù hợp với quy luật của vũ trụ và tự nhiên đều sẽ có giá trị trường tồn, gọi là “thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong” (Thuận ý trời người được thương, ngược ý trời người phải chết). Nghệ thuật cũng là một sản vật của văn hóa của con người trong vũ trụ, nên nghệ thuật cũng phải phù hợp với tự nhiên, phù hợp với bản chất con người (bao gồm cả cảm giác sinh lý và tâm lý), nó phải có thể tồn tại trong một thời gian dài, chuyển cho những người thuộc các thời đại khác nhau theo thời gian và không gian. Các nguyên tắc thẩm mỹ cổ xưa (cân bằng, hài hòa, tỷ lệ, nhịp điệu …) là phù hợp với quy luật tự nhiên. Xu hướng của nghệ thuật hiện đại được thay đổi liên tục, nhưng tuổi thọ của mỗi dạng thức rất ngắn; cho đến nay, liệu đã có tác phẩm nào là bất hủ?

Từ những tác phẩm kinh điển được công nhận trong quá khứ, cho dù đó là đồ chạm khắc Hy Lạp cổ đại, tác phẩm thời kỳ Phục Hưng, hay các tác phẩm nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc, chúng ta đều có thể tìm thấy những phẩm chất tương tự, có thể kể đến như:

  • Nghiêm ngặt, chính xác hoặc lý tính, logic.
  • Phù hợp với bản chất con người và cảm xúc được kiểm soát với mức độ thể hiện vừa phải.
  • Tuân thủ quy luật tự nhiên (hài hòa, thống nhất về nhịp điệu, cân bằng, cân đối về tỷ lệ…).
  • Lý tưởng hóa, thiêng liêng, phản ánh sự thật, lòng tốt, vẻ đẹp của “chân, thiện, mỹ”.
  • Giàu ý nghĩa tâm linh và phản ánh sự tu dưỡng của bản thân nghệ sĩ.
  • Thanh lịch và phổ quát, ai ai cũng có thể hiểu và cảm nhận, bất kì độ tuổi hay giới tính, chẳng hạn thơ của Lý Bạch hay nhạc của Mozart. 
Bức tranh trên trần trong nhà nguyện Sistine thuộc nhà thờ thánh Vatican. (Ảnh: epochtimes)

Những phẩm chất này không chỉ phản ánh cảm giác trực quan của cái đẹp, mà còn là nguồn cảm hứng của đạo đức con người; sự thuyết phục và thú vị, thậm chí là sự thăng hoa về tinh thần, đó mới là giá trị đích thực của nghệ thuật.

Tầng thứ bất đồng trong nghệ thuật

Khi đánh giá ý nghĩa nội hàm từ biểu hiện của nghệ thuật, cũng có những cảnh giới cao thấp bất đồng. Mặc dù “cảnh giới”, “xấu đẹp”, “phẩm chất” là những khái niệm khó để định lượng được chính xác, nhưng về khía cạnh “cảnh giới”, nghệ thuật cũng có những nhận thức phổ quát mà tương quan với tiêu chuẩn đạo đức.

Cảnh giới cao nhất – theo đuổi sự vĩnh hằng

Cho dù ở phương Đông hay phương Tây, cảnh giới nghệ thuật cao nhất đều là theo đuổi sự thật vĩnh hằng. Sự thật vĩnh hằng này được thể hiện trong các khái niệm về thần, Phật và thiên quốc, hay ở cấp độ trừu tượng được gọi là “Đạo” hoặc “Pháp”. Do đó, người phương Đông truyền thống chú ý đến “sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên”, cầu pháp tìm đạo. “Đạo” hay “Pháp” cũng là nền tảng của sự sống và cái chết của vũ trụ, vị tha, vô hạn và bao dung hết thảy. Nó siêu việt khỏi tình cảm con người, nhưng vì con người cũng nằm trong đó, nên con người cũng có thể nhận thức được. Do đó, ngay cả khi bức tranh phương Đông không thể hiện trực tiếp thần Phật, nhưng thường bao hàm tư tưởng tu luyện tâm tính.

“Khê sơn hành lữ đồ” – Phạm Khoan, Bắc Tống (Ảnh: epochtimes)

Ở phương Tây, triết gia La Mã cổ đại Plotinus tin rằng sự thật, lòng tốt và vẻ đẹp là hợp nhất với thần; thần linh  là nguồn gốc của cái đẹp. Do đó, các nghệ sĩ phương Tây trực tiếp đại diện cho Thiên Chúa hoặc thiên quốc, trên thực tế là đại diện cho sự thật vĩnh cửu, tối cao và hoàn hảo. Hầu như tất cả các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất ở phương Tây đều được tìm thấy trong các nhà thờ Thiên Chúa.

“Đối thoại văn học” của triết gia Hy Lạp Plato cũng có câu: “Mỗi linh hồn từng cá nhân đã từng hồn nhiên quan sát thế giới thực vĩnh cửu một cách chân thực...”. Plato tin rằng linh hồn con người (nguyên thần) đều đến từ “thế giới vĩnh hằng chân thực” (thế giới của thần). Những điều tốt đẹp trên trái đất cũng là những gì tồn tại ở “thượng giới” (thiên quốc). Do đó, nếu nghệ thuật của con người có thể khiến mọi người nhớ lại hoặc cảm nhận vẻ đẹp của thượng giới, thì có thể dẫn dắt con người trở về bản chất nguyên thủy, bản tính thuần thiện và chân chính nhất. Nghệ thuật này là nghệ thuật ở cảnh giới cao nhất.

Nghệ thuật đạt đến cấp độ này là rất hiếm, thậm chí càng ít hơn trong nghệ thuật đương đại. May mắn thay, trong những năm gần đây, đã xuất hiện “Đoàn nghệ thuật biểu diễn Shen Yun” lưu diễn trên khắp thế giới, hội tụ những nghệ sĩ biểu diễn đương đại hiếm hoi có thể đạt đến cảnh giới này. Ngoài việc mang đến cho khán giả cảm giác mỹ cảm về thính giác và thị giác, nhiều khán giả còn cảm nhận được thanh lọc thân thể một cách thần thánh, đi cùng sự rung động sâu sắc trong tim.

Tầng thứ hai – tinh thần cao thượng

Con người Châu Âu thời Phục Hưng nhận ra rằng mặc dù con người được tạo ra bởi thần linh, nhưng chủ thể của con người vẫn là ở thế gian. Con người sử dụng suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình để hiểu về thần và thiên nhiên, sinh mệnh được rèn luyện qua những vui buồn của cuộc sống, tích lũy những kinh nghiệm đáng quý. Do đó, nghệ thuật trải rộng từ việc ca tụng thần linh đến việc thể hiện vẻ đẹp của thế gian, bao gồm cả việc trân quý cuộc sống, những tình cảm cao thượng cùng nhiều giá trị phổ quát như đức hạnh và công lý.

Tác phẩm của họa sĩ người Pháp Jacques-Louis David năm 1784 -“The Oath of the Horatii” (Ảnh: epochtimes)

Tuy nhiên, giống như hí kịch, những câu chuyện thuận buồm xuôi gió thường không hấp dẫn, phải có những khó khăn và thử thách để vượt qua khảo nghiệm nghịch cảnh; do đó kích thích năng lượng sống cũng là một ý nghĩa giá trị. Nhiều tác phẩm nghệ thuật được lấy cảm hứng từ hành động của những anh hùng, những con người vĩ đại. Chúng cho thấy sự tương phản và đấu tranh nội tâm, biểu hiện nhân tính và ác tính giao chiến với nhau, trong nghịch cảnh mà thể hiện lòng cao thượng vị tha, thăng hoa trong quá trình xung đột và hòa giải, trở thành một ánh sáng vĩnh cửu truyền cảm hứng cho con người. Bởi vì đức hạnh, trí tuệ và lòng can đảm của con người chính là yếu tố thúc đẩy nhân loại đi từ bình thường đến phi thường. Thông qua quá trình rèn luyện nghệ thuật, cuộc sống và giá trị của con người cũng trải dài từ hữu hạn đến bất hủ.

Thiên nhiên vĩ đại khiến con người cảm thấy mình luôn nhỏ bé (Ảnh: epochtimes)

Ngoài ra, sự tráng lệ của tự nhiên, sự vô hạn, thần bí và không thể đoán trước của thiên nhiên cũng là một lực lượng siêu phàm cho sự thăng hoa. Do đó, thiên nhiên vĩnh viễn là mẫu vật tốt nhất cho nghệ thuật của con người.

Tầng thứ thứ ba – thể hiện bản thân

Mỗi tác phẩm của nghệ sĩ đều phải thể hiện những yếu tố của bản thân; từ kinh nghiệm sống của tác giả, tính cách, tư tưởng, sở thích, sắc thái, đến thái độ và thói quen sáng tạo, là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành phong cách cá nhân trong các tác phẩm của nghệ thuật gia đó. Nói cách khác, “cái tôi” của tác giả đã có trong các tác phẩm, không cần phải hướng ngoại tìm kiếm. Người xưa nói rằng “họa như kỳ nhân” (hội họa giống như người), “tự như kỳ nhân” (chữ cũng giống như người) quả thật vô cùng chính xác.

Đó cũng là điều tự nhiên khi các nghệ sĩ thể hiện tài năng, suy nghĩ hoặc cảm xúc của họ trong sáng tạo, sau đó để tác phẩm tự giao tiếp với khán giả. Chỉ có những tâm tư và hoàn cảnh khác nhau trong tác phẩm mới tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau cho người xem.

Cái gọi là “thể hiện bản thân” hay nhấn mạnh “sự độc” trong sáng tạo nghệ thuật cũng là hiện tượng xảy ra sau sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa lãng mạn. Đặc biệt là sau khi rời bỏ trường phái ấn tượng, “phong cách cá nhân” của các nghệ sĩ ngày càng được nhấn mạnh, cuối cùng thậm chí trở thành một tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị của tác phẩm nghệ thuật; cho nên trong các tác phẩm của thế kỷ XX, nhiều nghệ sĩ đã cố tình từ bỏ nghệ thuật truyền thống, chạy theo đổi mới, biểu diễn và đào sâu vào những ý tưởng mới.

Trong tình huống như vậy, tác phẩm để “thể hiện bản thân” rất dễ chảy vào sở thích riêng hoặc đi vào cực đoan cá nhân, rất khó để tạo ra tiếng vang. Cái gọi là “cái tôi” đó cũng phụ thuộc vào tâm tính mỗi cá nhân tác giả, nên phải đối mặt với một loạt câu hỏi như: có suy đồi không? có nhỏ mọn không? có tự cao tự đại không? có còn tươi sáng và thân thiện không? Cũng giống như tính cách của một người, nếu sáng tạo nghệ thuật chỉ là để tìm kiếm danh tiếng và tiền tài, thì làm thế nào nó có thể đạt tới sự cao quý? làm thế nào nó có thể thực sự chạm được tới trái tim người xem?

(Còn tiếp)

Theo epochtimes.com

Uyển Vân biên dịch