Theo “Sử ký” ghi chép, “Xuân Thu Ngũ Bá” là chỉ 5 vị bá chủ thời Xuân Thu, bao gồm: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương, Tống Tương Công. Mỗi nhân vật đều để lại một câu chuyện ý nghĩa đều là bài học đáng giá cho hậu nhân. 

Tiếp theo Phần 1.

3. Tần Mục Công dốc lòng xây dựng đất nước

Tần Mục Công (659 – 621 TCN) là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần thời kì Xuân Thu, họ Doanh, tên Nhậm Hảo. Ông tại vị 39 năm, những cuộc chinh phạt của Mục Công đã giúp ông được xưng tụng trong sử sách là một trong Ngũ Bá tiêu biểu nhất của thời Xuân Thu.

Là người trọng nhân tài, Tần Mục công đã thu phục và sử dụng nhiều danh thần ngoài nước Tần như Bách Lý Hề, Kiển Thúc, Công Tôn Chi, Phi Báo. Ông từng hiệp trợ Tấn Văn Công đoạt vương vị và trở lại nước Tấn. Sau khi nâng đỡ Tấn Văn Công và cùng nhau kết hợp thành liên minh Tần Tấn. Sau khi Tấn Văn Công mất, liên minh tan rã, Tần Tấn trở nên đối kháng nhau. Tần Mục Công từng thân chinh dẫn binh thảo phạt nước Tấn, sau khi vượt sông Hoàng Hà, Mục Công thể hiện ý chí quyết thắng bằng việc ra lệnh thiêu hủy thuyền. Quân Tần nhanh chóng chiếm được Vương Quan (nay ở phía Tây Văn Hỷ, Sơn Tây), quân Tấn cố thủ trong thành không ra giao chiến, Mục công bèn dẫn quân Tần đi thu nhặt hài cốt của lính Tần tử trận trước kia rồi quay về nước.

Năm thứ 37 (năm 623 TCN) Mục Công tại vị, nước Tần tiếp tục mở mang bờ cõi về phía Tây, quân Tần xuất chinh xâm chiếm Tây Nhung, Tần Mục Công dùng kế tiên cường hậu nhược để dần xâm lấn vào các bộ lạc Tây Nhung, bao vây Miên Chư.

Bấy giờ vua Miên Chư nghe Mục Công là vua hiền, sai sứ đến thông hiếu. Mục Công tiếp đãi long trọng, nhân đó điều tra địa hình binh lực Tây Nhung, rồi tặng Nhung chúa nhiều loại nhạc cụ và mỹ nữ. Sau đó vua Tây Nhung vì ham mê âm nhạc, bỏ bê chính sự, thế nước suy yếu. Tần Mục Công thấy vậy, quyết định phạt Nhung, Nhung chúa vội đầu hàng, Mục Công tiếp đãi đúng lễ. Tần Mục Công tiếp tục thừa thắng tiến lên, và giành thắng lợi lớn khiến cho 20 tiểu quốc Nhung Địch quay sang quy phục nước Tần. Lúc này biên giới nước Tần được mở rộng chưa từng có, phía Nam giáp Tây Lĩnh, phía Tây vươn tới Địch Đạo (nay thuộc Lâm Thao, Cam Túc), phía Bắc đến Cù Diễn Nhung (nay thuộc Diêm Trì, Ninh Hạ), phía Đông giáp với Hoàng Hà. Danh tiếng bá chủ Tây Nhung của Tần Mục công làm vang dội chư hầu, và ông được coi là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.

Tần Mục Công xác định mục tiêu rõ ràng, hành động cấp tốc, đối ngoại tích cực, mở rộng lãnh thổ, đối nội trọng dụng nhân tài. Điều này khiến cho nước Tần từ vị trí một chư hầu xa xôi hẻo lánh ở phía Tây Bắc không được Thiên Tử coi trọng nay vươn lên địa vị bá chủ thời Xuân Thu. Thế nên Tần Mục Công tuyệt đối xứng đáng được xưng tụng là một trong Xuân Thu Ngũ Bá.

Tần Mục công có tấm lòng rộng rãi nhân đức, ông đã đưa nước Tần từ vị trí một chư hầu xa xôi hẻo lánh vươn lên địa vị bá chủ thời Xuân Thu. (Ảnh minh họa: soundofhope.org)

4. Sở Trang Vương một khi lên tiếng ai nấy đều khiếp sợ

Sở Trang Vương (? – 591 TCN), tên thật là Hùng Lữ, hay Mị Lữ, là con trai của Sở Mục Vương. Ông là một trong những vị Sở vương có thành tựu đáng kể nhất. Dưới thời đại của ông, nước Sở trở nên cực thịnh, đặc biệt là đánh đại bại nước Tấn, thảo phạt nước Trịnh, khiến tên tuổi của Sở Trang Vương được liệt vào trong Ngũ bá thời Xuân Thu.

Sở Trang Vương đăng cơ năm 613 TCN, khi tuổi còn nhỏ. Trong vòng 3 năm ông không để ý đến việc triều chính và cơ nghiệp bá chủ, ban ngày thì du ngoạn săn bắn, đêm đến thì bày tiệc uống rượu, ông hạ lệnh cho dựng một tấm biển gỗ trên viết: “Ai dám can ngăn thì chém chết”. Nhưng vẫn có một vài đại thần liều chết mà khuyên ngăn, đại thần Ngũ Cử liền vào cung gặp Sở Trang Vương, muốn can gián ông tập trung vào việc nước nên ví von với một con chim: “Kinh đô nước Sở có một con chim lớn, năm màu sặc sỡ, dáng vẻ mỹ miều; chỉ suốt ba năm không bay không hót, các quan văn võ trong triều không hiểu vì sao. Ngài thử xem, cuối cùng đây là chim gì?

Lúc này Sở Trang Vương trả lời: “Ta biết rồi. Đây có thể không phải là loài chim thường. Con chim này ba năm không bay, nhưng khi bay vút tận trời xanh, ba năm không hót nhưng khi hót là người người khiếp sợ. Ngươi xem có đúng không?”

Thế nhưng qua mấy tháng, con chim lớn Sở Trang Vương này vẫn y như cũ, không “bay” cũng không “hót”, vẫn chỉ có uống rượu, đi săn, thưởng thức ca múa. Đại phu Tô Tòng không còn nhẫn nại được nữa, bèn đến gặp Trang Vương. Vừa bước vào cửa cung, ông ta đã khóc ầm lên. Trang Vương cuối cùng cũng nghe theo, bắt đầu chỉnh đốn nội chính, trừng phạt những kẻ tiểu nhân, phân công Ngũ Cử, Tô Tòng trợ giúp triều chính, người dân nước Sở vô cùng cao hứng, khiến cho quốc lực nước Sở ngày càng hùng mạnh.

Khổng Tử từng tán thưởng Sở Trang Vương là một vị quân chủ trọng tín và trọng nghĩa. “Tả truyện – năm Tuyên Công thứ 11” có ghi chép rằng, các đại thần nước Trần đã chạy sang nước Sở cầu cứu, mong muốn Trang Vương có thể thay nước Trần bình định nội loạn. Năm 598 TCN, Sở Trang Vương xuất chinh đem quân thảo phạt nước Trần. Đồng thời thôn tính nước Trần và đổi thành một huyện của nước Sở.

Sau khi Thân Thúc Thời can ngăn, Sở Trang Vương đã cho khôi phục lại chế độ cũ của nước Trần, đồng thời phái người đến nước Tấn nghênh đón Thái tử Ngọ trở về lên ngôi vua nước Trần, xưng hiệu là Trần Thành Công. Thế nên Trần Thành Công luôn mang ơn đối với Sở Trang Vương, nước Trần từ đó hoàn toàn quy phục nước Sở. Từ đó về sau mãi cho đến khi nước Trần bị diệt vong, vẫn luôn là nước phụ thuộc nước Sở chưa bao giờ phản bội.

Khổng Tử khi đọc đến giai đoạn lịch sử này nói rằng: “Sở Trang Vương là người hiền đức, coi trọng chữ tín hơn cả quốc gia lớn ngàn cỗ xe. Nếu như không vì chữ “Tín” của Thân Thúc, thì không thể thành chữ “Nghĩa” của Trang Vương. Nếu như không phải Trang Vương “Hiền”, thì cũng sẽ không chấp thuận lời khuyên bảo của Thân Thúc”.

Sở Trang Vương từ một vị quân chủ ăn chơi truỵ lạc đến sửa chữa lỗi lầm trở thành một đại bá chủ. (Ảnh minh họa: laonanren.com)

5. Tống Tương Công là vị quân chủ thành tín mưu đồ bá nghiệp mà chưa thành

Tống Tương Công (? – 637 TCN), tên thật là Tư Phủ, là vị quân chủ thứ 20 của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 13 năm (năm 650 – 637 TCN).

Tề Hoàn Công sau khi chết bởi nội loạn, Thái tử Ngộ trốn chạy sang nước Tống. Tống Tương Công liên hợp với các nước chư hầu Tào, Vệ, Chu tiến vào nước Tề hợp sức với lực lượng của người Tề để dẹp loạn, đưa Thái tử Chiêu về nước lên ngôi vua. Sự kiện này đã khiến chư hầu liệt Tống Tương Công vào hàng Bá, tức người thứ hai trong Ngũ Bá, nhưng cũng khiến Tương Công ảo tưởng về sức mạnh của nước Tống vốn thực chất không phải một chư hầu lớn mạnh như Tề hay Sở.

Năm Lỗ Hi Công thứ 21 (639 TCN), Tống Tương Công mời Lỗ Hi Công, Tề Hiếu Công cùng nước Sở kết liên minh tại Lộc Thượng (nay là phía Nam thành phố Phụ Dương, An Huy, hoặc phía Tây Nam của huyện Cự Dã tỉnh Sơn Đông). Nước Sở giả vờ nhận lời, nhưng lại ngầm bày thiên la địa võng. Mùa thu năm 639 TCN, Tống Tương Công đến đất Vu để hội chư hầu cùng nước Sở. Khi ra hội, các nước Sái, Trịnh, Tào, Trần, Hứa đều sợ nước Sở mạnh nên ngả theo Sở Thành Vương. Sở Thành Vương bèn đặt phục binh, chờ Tống Tương Công đến liền bắt giữ rồi đem quân đánh Tống. Công tử Mục Di từ liên minh trốn về dùng toàn bộ lực lượng chống lại quân Sở, kiên quyết không hàng. Sở Vương chỉ bắt giữ được Tống Tương Công cũng vô dụng, liền đem đưa cho nước Lỗ, Lỗ Hi Công thừa cơ ra mặt thuyết phục cho thả Tống Tương Công về nước.

Nhưng Tống Tương Công vẫn không ý thức được lúc này các nước khác đã không còn tin nước Tống. Lúc đó nước Sở hùng mạnh, nên nước Trịnh nghiêng về nước Sở. Vì thế, vào năm 638 TCN, Tống Tương Công xuất quân phạt nước Trịnh. Sở cứu Trịnh, và hai bên giáp trận ở trận Hoằng Thủy. Khi Tống Tương Công bày trận xong thì quân Sở vẫn chưa sang sông hết. Tư Mã Cố khuyên Tương Công đánh ngay vì quân Sở đông hơn. Ông không nghe theo, cho rằng đánh trận cần đàng hoàng không dùng thủ đoạn. Khi quân Sở qua sông xong chưa kịp bày trận, Tư Mã Cố lại khuyên nên đánh, nhưng ông vẫn không nghe theo.

Khi quân Sở bày trận xong xông tới giáp chiến rất mạnh mẽ, quân Tống không chống nổi, bị thua tan tác, chết rất nhiều. Bản thân Tống Tương Công bị thương ở đùi, vì thế người dân trong nước đều oán trách ông, nhưng ông lại nói: “Theo ta, quân đội nhân nghĩa thì phải đánh như vậy. Thí dụ, thấy người đã bị thương thì không làm hại, thấy người già tóc bạc thì không bắt làm tù binh. Người xưa dụng binh, không bức bách người ta vào chỗ nguy hiểm. Quả nhân mặc dù suýt vong quốc nhưng không tiến quân mà không thành hàng lối” (“Tả truyện” Hi Công năm thứ 22).

Sau trận chiến ở Hoằng Thủy, nước Tống tổn thất nặng nề, thực lực quốc gia từ đó không gượng dậy nổi, không lâu sau Tống Tương Công vì vết thương trong trận đánh với quân Sở không qua khỏi và mất.

***

“Xuân Thu Ngũ Bá” là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, lúc này các nước chư hầu chiến tranh tranh bá liên miên, vì đó là để chuẩn bị cho một thời kỳ mới – thời kỳ Chiến Quốc – các nước thôn tính sát nhập.

Theo Đường Khiết – soundofhope.org
Tuệ Liên biên dịch

videoinfo__video3.dkn.tv||8e4fe82de__

Xem thêm: