Sonata for Piano No. 28 in A major, Op. 101 (Piano Sonata No. 28 cung La trưởng, Op. 101) của Beethoven được viết vào năm 1816 và được dành riêng cho nghệ sĩ piano Nam tước Dorothea Ertmann, nhũ danh Graum. Bản sonata này đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ thường được coi là thời kỳ cuối cùng của Beethoven, nơi các hình thức phức tạp hơn, ý tưởng rộng hơn, kết cấu đa âm hơn, và cách xử lý các chủ đề và họa tiết thậm chí còn phức tạp hơn trước. Op. 101 cũng minh họa cho phong cách mới này và Beethoven khai thác các phím đàn được mở rộng thời đó.

Một phần của Piano Sonata No. 28, Op. 101. Ảnh: Wikipedia.

Như với bản sonata trước, không rõ tại sao Beethoven viết Op. 101. Những bản phác thảo được biết đến sớm nhất là trên những chiếc lá đã từng hình thành nên các phần của Scheide Sketchbook năm 1815 – 1816. Nó cho thấy chương đầu tiên đã được phát triển tốt và được ghi nhận là một bản dự thảo mở rộng, và cũng có một vài ý tưởng sơ bộ cho Allegro cuối cùng.

Chính Beethoven đã mô tả bản sonata này, được sáng tác tại thị trấn Baden, ngay phía nam Vienna, vào mùa hè năm 1816, là “một loạt các ấn tượng và sự tôn kính”. Bản chất gần gũi hơn của sonata có lẽ có mối liên hệ nào đó với bệnh điếc của ông, mà ở giai đoạn này gần như hoàn toàn cô lập ông với xã hội, đến nỗi phương tiện giao tiếp với bạn bè và du khách của ông chỉ là một cuốn sổ tay.

Một bản phác thảo của Beethoven. Ảnh: Wikipedia.

Beethoven đã đề nghị bản sonata được xuất bản trong một bức thư gửi Breitkopf và Härtel vào ngày 19 tháng 7 năm 1816, khi nó vẫn chưa hoàn thành. Cuối cùng, nó đã được bán cho nhà xuất bản Vienna địa phương Sigmond Anton Steiner, sau khi hoàn thành và được xuất bản vào tháng 1 năm 1817.

Piano Sonata No. 28 in A major, Op. 101 gồm 4 chương:

Chương 1: Etwas lebhaft, und mit der innigsten Empfindung (Hơi sống động, và với sự nhạy cảm trong cùng). Allegretto, ma non troppo
Chương 2: Lebhaft, marschmäßig (Sống động, giống như diễu hành). Vivace alla marcia
Chương 3: Langsam und sehnsuchtsvoll (Chậm và lâu). Adagio, ma non troppo, con affetto
Chương 4: Geschwind, doch nicht zu sehr, und mit Entschlossenheit (Nhanh chóng, nhưng không quá mức, và với quyết tâm). Allegro

Clip là trọn vẹn tác phẩm được chơi trực tiếp bởi nghệ sỹ Maurizio Pollini:

Chương 1 trên cung La trưởng, nhịp 6/8, và ở dạng sonata. Dấu ấn nhịp độ cho chương mở đầu là: “Etwas Lebhaft und mit der innigsten Empfindung”, được dịch đại khái là “hơi sống động và với cảm giác ấm áp nhất.” (Thuật ngữ này được sử dụng trên bản nhạc được công bố đầu tiên nhưng không có trên bút tích, chỉ có “Allegretto ma non troppo. Có thể thấy chương nhạc rất ngọt ngào lãng mạn, nhưng thấm đượm nỗi cô đơn man mác.

Chương 2 trong cung Fa trưởng, nhịp 4/4. Phần giữa là cung Si trưởng. Nó có hình thức của một cuộc diễu hành ở dạng ternary, và được đặc trưng bởi các nhịp điệu rải rác, trật khớp hài hòa và xen kẽ giữa tĩnh và gia tốc. Chương nhạc rất mạnh mẽ tinh khôi, ẩn chứa những giá trị nội tâm trong sáng tuyệt vời.

Chương 3 bắt đầu với phần giới thiệu chậm trong cung La thứ, nhịp 2/4. Giai điệu mở đầu của chương 1 được gợi nhớ lại giống như phần giới thiệu gần kết thúc của nó trong nhịp độ ban đầu. Như vậy thính giả sẽ cảm nhận rõ những nét nhạc hơi khắc khoải, cô đơn và trong sáng.

Chương 4 bắt đầu nối liền với chương 3 mà không dừng lại, và trở về cung giọng chính của chương đầu tiên, trong La trưởng. Đây là một chương nhạc lớn, trong đó Beethoven đã khám phá bộ bàn phím mới nhất được đặt trong lệnh của mình, sử dụng E (E1) thấp nhất trên cây đàn piano gần cuối. chương này là chương dài nhất và thách thức nhất về mặt kỹ thuật trong bản sonata này. Hơn nữa thính giả có thể thấy rõ những nét nhạc của Beethoven trong thời kỳ cuối rất giàu hình tượng, tương phản dữ dội, mà trong sáng lạ lùng.

Đôi nét về tác giả

Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ông được coi là người dọn đường (Wegbereiter) trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn.

Beethoven được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, và khán giả về sau.

Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ (Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê (Appasionata)… các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer… các Piano Concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major… các khúc mở màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont… và vở Opera duy nhất Fidelio, v.v.