Trong văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã xuất hiện một vầng sao Khuê. Dù rằng cuộc đời của ông vừa tới tuổi “tri thiên mệnh” đã ra đi; dù rằng thời gian để ông say sưa với rượu, thù tạc với bạn bè, giang hồ phiêu lãng trong Nam ngoài Bắc nhiều hơn bên bàn viết; thế nhưng, cùng với cá tính vô cùng đặc biệt, ông đã kịp để lại một sự nghiệp khá phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Thi sĩ tài năng ấy là Tản Đà.

Ngôi sao Khuê ấy đã vạch một đường bay, để rồi lốm đóm, và rồi cả một giải Ngân Hà sao cháy rực lấp lánh. Nhà thi sĩ, nhà văn hóa tiền đạo ấy thực sự là người có công đầu tiên khai mở một thời đại cho thơ ca Việt Nam, một thời đại văn học Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ.

Trăm năm thơ túi, rượu vò
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?

Con người ấy đã bao lần tự giới thiệu mình, khi thì tách mình ra, mình gọi mình và bắt người ta gọi mình là “bác”.

Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi sông biển, thiếu gì gió trăng

Trời sinh ra bác Tản Đà. Quê hương thời có, cửa nhà thời không. (Ảnh: Pinterest.com)

Vị Khuê tinh bị đày xuống hạ giới?

Trong “Giấc mộng con II” của Tản Đà, Đông Phương Sóc – một vị tiên bị đày xuống hạ giới và là nhân vật trong truyện – đã giới thiệu Tản Đà là “vị Khuê tinh” vì “dám làm thơ liệng sang cung Quảng hàn bị Cuội bắt đem trình Thượng Đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới”. Vậy mà vẫn thơ phú có tình ý với Hằng Nga nên Thượng Đế “tặng thêm cái hạn đày ông hai năm nữa”.

Nhưng, Trời đã giải thích trong niềm tin yêu độ lượng cha con:

Trời rằng: “Không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc “Thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (tức 25 – 5 – 1889) quê ở làng Khuê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là Sơn Đà, Ba Vì, Hà Tây). Quê hương núi Tản Viên, sông Đà Giang này đã để lại trong thơ Tản Đà nhiều vần hay:

Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn năm non Tản mắt lơ mơ
(Ngày xuân thơ với rượu)

Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cái diều bay.
(Còn chơi)

Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình

Dòng dõi thế phiệt trâm anh

Gia đình Tản Đà là dòng dõi thế phiệt trâm anh. Ông tổ sáu đời làm quan to; Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là người cùng họ; nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế là anh rể và là người mở đường cho Tản Đà vào nghiệp văn chương:

Phụ thân Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân, làm quan triều Huế. Tản Đà là con bà vợ ba và con trai út trong 11 người con trai của gia đình.

Phụ mẫu nhà thơ là Nhữ Thị Nhiêm, vốn là cô đào hát nổi tiếng ở Nam Định có hồn thơ rất mực tài hoa.

Phụ mẫu ông vốn là cô đào hát tài hoa có tiếng. (Ảnh minh họa: Wikipedia.org)

Tản Đà ba tuổi để tang cha; lên bốn mẹ bất hòa với gia đình bỏ nhà trở lại nghề đào hát. Tản Đà ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Tài Tích – đã đậu phó bảng, từng làm tri huyện Vụ Bản (Nam Định), làm đốc học Hà Nội.

Thuở nhỏ Tản Đà học chữ Nho, theo văn chương cử nghiệp. Năm 1907 Tản Đà học trường Quy Thức, nơi dạy quốc ngữ, Pháp văn và những tri thức văn hóa u Tây.

Những ngày tiếp xúc với “tân thư”

Từ năm 1911, Tản Đà tiếp xúc được với “tân thư” và làm quen với các nhà tư tưởng lớn phương Tây qua sách dịch của Trung Quốc. Từ 1916 đến 1920 Tản Đà lần lượt xuất bản:

– Khối tình con I (1916)
– Khối tình con II (1918)
– Khối tình con bản chính, Khối tình con bản phụ (1918)
– Đài gương, Đàn bà Tàu, Thần tiền, Lên sáu (1919)
– Lên tám (1920)
– Tuồng “Tây Thi”, “Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai”

Năm 1920, nhà thơ đi chơi Huế, Đà Nẵng. Lúc về ông viết “Thề non nước”. Năm 1912, Tản Đà làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh. Báo ra được 12 số thì Tản Đà từ chức về Sơn Tây. Năm 1922, ông thành lập Tản Đà thư điểm sau hợp với Nghiêm Hàm thành Tản Đà tu thư cục. Từ năm 1921 đến năm 1925, Tản Đà xuất bản:

– Còn chơi (1921)
– Tản Đà tùng văn (1922)
– Chuyện thế gian I và II (1923)
– Trần ai tri kỉ, Quốc sử huấn mông (1924)
– Nhuân sắc tuồng “Truyện tì bà” của Đoàn Tư Thuật và dịch sách Đại học (1922), Kinh thi (1924).

Năm 1925 có phong trào ân xá Phan Bội Châu; 1926 có phong trào để tang Phan Châu Trinh, Tản Đà đã “đầu đơn chính phủ Tạp chí An Nam”, để viết báo mong lập sự nghiệp “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Từ ngày ra đời (1-7-1926) cho đến năm 1933, An Nam tạp chí èo uột, dở khóc dở cười, đứt thôi lại nối đến bốn lần và chết hẳn. Tờ báo ấy cũng phong vận như chủ báo. Sau khi thất bại ở Hà Nội, Nam Định, Vinh, Tản Đà có ý đưa An Nam tạp chí vào Sài Gòn nhưng không xin được phép nên ở lại cùng Ngô Tất Tố viết phụ trương cho Đông Pháp thời báo của Diệp Văn Kỳ.

Từ năm 1926 đến năm 1933 Tản Đà xuất bản:
Giấc mộng con II (1932)
Giấc mộng lớn (1932)
Khối tình con III (1932)

Năm 1934, “Tản Đà xuân sắc” đã không còn là một tin xuân cho độc giả đang hướng sự chú ý sang Thơ mới và Tự lực văn đoàn. Vì miếng cơm, Tản Đà phải quảng cáo chữa văn, quảng cáo cái nghề xem bói:

Còn như tiền đặt quẻ
Nhiều: năm, ít: có ba
Ít nhiều tùy ở khách
Hậu bạc kể chi mà!

Dịch thơ Đường

Nhà nguyên súy trên thi đàn một thời giờ đây dịch thơ Đường cho báo “Ngày nay”, dịch Liêu trai chí dị, chú giải Truyền Kiều….để mưu sinh thường nhật. Vì nợ tiền nhà, bị chủ đuổi, Tản Đà cùng “đoàn thê tử yếu và đuối”, về sống ở phố Cầu Mới (Ngã Tư Sở – Hà Nội).

Sau mấy ngày “ăn nhờ ở đậu” nhà bạn ở Phủ Quốc, Tản Đà ngất ngưởng trên chiếc xe kéo về Hà Nội. Giữa trưa hè bức sốt, tửu đồ đã nhảy xuống đầm lội bơi thích thú. Về nhà, Tản Đà ngã bệnh, không có tiền mời “đốc tờ”, ngày thứ năm ông trút linh hồn “môi mím khít lại … có nét mặt răn rúm của người chết khó khăn… Ở đầu giường bệnh vẫn cái chồng sách cũ nát trên cái ghế mọt thay làm án thư bên cái chồng sách bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo… Và lẻ loi ở góc bàn vẫn cái hũ rượu cáp giới ngày nọ”.

Tản Đà ngồi xe kéo để trở về Hà Nội. (Ảnh: Loicaviet.com)

Trong bài “Bây giờ đây, khi cái nắp quan tài đã đậy lại” Lưu Trọng Lư kể: “… một buổi sáng (năm 1932) tôi xin vào “yết kiến” nhà thi sĩ mà bấy giờ tôi coi như một vị sứ giời sai xuống, hay bị đày xuống cõi trần gian để làm một anh nhà Nho ngông, một thi sĩ nghèo, một ông chủ bút phiêu bạt (…).

Tôi đến lần thứ nhất vào khoảng tám giờ sáng. Tên “tiểu đồng” cho tôi biết rằng: ông chủ nhiệm đương ngủ. Mười giờ tôi đã trở lại (…): thi sĩ vẫn chưa dậy. Mười một giờ, tôi lại đến: nhà Nho vẫn còn giấc. Tôi đành tự hẹn mình đến chiều. Hai giờ rưỡi tôi đến: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã dậy và mới bắt đầu ngồi vào chiếu rượu. Một giờ sau, tôi trở lại nghĩ rằng bữa cơm của một kẻ “trần gian” lâu lắm cũng đến một giờ là cùng.

Bốn giờ tôi bước vào thì hình như tiên sinh vừa hạ … đũa. Tôi có cảm giác rằng tôi bây giờ là kẻ sứ giả của nhà Hán, đã vượt qua sáu châu ba đảo mới tìm thấy người tình của nhà vua. Chốc nữa, Dương Quý Phi sẽ phất tay áo bước ra nơi mái tây để tiếp tôi.

(…) Hình như thi nhân vẫn còn giữ cái vẻ cách biệt của một Tiên ông đối với kẻ phàm trần… (….) Tiên sinh là hạng người làm cho đời trở nên cầu kỳ, trở nên phiền toái trong những cái sự phát triển hằng ngày của nó (…).

Họ Lưu đã nhận xét: (…) Con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà. Một người (…) có quyền trao cái tên mình lại cho hậu thế”.

Đọc những kỉ niệm về Tản Đà của các nhà văn và những người đương thời, ta có thể hình dung về một con người có cá tính rất lạ lùng, vì thế mà nền văn học Việt Nam có một nhà văn phong cách không giống ai. Trong cái xã hội hiện đại mà tốc độ, nhịp điệu cuộc sống đang quay nhanh đến chóng mặt thì Tản Đà vẫn sống thích thảng như những ẩn cư ngao du sơn thủy: muốn ăn, ngủ; muốn đi chơi hay làm việc đều tùy hứng, tùy thích.

Ăn uống thì rất cầu kỳ. Tản Đà thường tự làm lấy để cùng bạn bè nhâm nhi. Ông cho rằng để có một bữa ăn nó còn khó hơn công việc bếp núc văn chương. Đọc “Tôi và Tản Đà” của Nguyễn Văn Phúc, ta như nghe tiếng ngâm sang sảng:

Nghề ăn cũng lắm công phu
Làng ăn ta phải biết cho đủ mùi.

Và Tản Đà giảng giải: “Ăn uống tinh vi và khó khăn… ngoài những nhà tửu đồ có cốt cách, đã mấy ai là người biết thưởng thức cách ăn uống cho có nghệ thuật. Tôi cho nghệ thuật ăn uống cũng khó như nghệ thuật viết văn. Mà lại có khi còn hơn nữa” (…) “Tôi cần phải làm một quyển sách nhỏ nói rõ về sự ăn và đặt tên sách là: “Nghề ăn”. (…) Muốn ăn ngon đồ ăn phải ngon, giờ ăn phải ngon, chỗ ngồi phải ngon, người cùng ăn phải ngon…”

(Ảnh: Khoeplus24h)

Đinh Hùng kể lại câu chuyện về lũ môn sinh chữ Hán làm cá cho thầy Tản Đà nhắm rượu mà thiếu mất bộ lòng. Suốt đêm thầy trò đã đốt đuốc đề tìm cho kì được bộ lòng cá trên bãi cỏ bờ sông vắng cho món “dấm cá có hồn”, để bữa cá không “thất niêm, thất luật”.

Còn về rượu thì Tản Đà là một tửu đồ. Ông cho rằng “Cái lệ của tạo nhân mặc khách, đã ăn tất phải uống, mà uống tất nhiên phải uống rượu, không có rượu thì thực là… “cầm thú chi tình”. Cái hồi in “An Nam tạp chí” ở Vinh, mới lên tàu ở Hàng Cỏ, Tản Đà đã say. Có lúc, tàu đưa ông vào tận Quảng Nam ông mới biết cần quay trở lại. Con ma men Tản Đà đã làm cho những người soát vé xe lửa phải biết tiếng. Họ không đánh thức và cũng chẳng kiểm vé ông bởi biết đó là Nguyễn Khắc Hiếu.

Khái Hưng rất khâm phục tài nói chuyện của Tản Đà. Ông phát hiện ra cái bình để trước mặt nhà thơ khi diễn thuyết “đựng đầy rượu ngang” và cho rằng: “Tản Đà chỉ có duyên trong khi say; không hơi men, Tản Đà buồn rầu, lạnh lẽo và chua chát”.

Có lần Tản Đà làm khách một nhà giàu ở Hòn Gai. Nhân mọi người đi vắng, ông hì hục đào nền gỡ gạch bông ra. Về nhà thấy vậy, chủ nhà hốt hoảng thì ông hồn nhiên: “Hôm nay trời mát, cuốc tí đất rồi nhắn người đưa húng Láng đến trồng”.

Hết phần 1. Mời độc giả đón đọc phần 2. 

La Vinh