Từ đầu năm đến nay, nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam phải giải cứu một phần do Trung Quốc lúc nhập lúc không. Sự phụ thuộc này một lần nữa đặt ra câu hỏi rằng khi sản phẩm không bán được thì phải làm gì.  

Trung Quốc hiện là một thị trường tiêu thụ lớn của hàng hóa Việt Nam và thường đứng vị trí thứ nhất về nhập khẩu nông sản Việt trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, không phải cứ hàng Việt Nam bị Trung Quốc mua nhiều thì Việt Nam sẽ bị phụ thuộc.

Quan điểm trên được Tiến sĩ Lê Văn Bảnh – Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm thủy sản và Nghề muối (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Phát triển), đưa ra khi trao đổi với Báo Đất việt.

Theo TS. Bảnh, hoạt động buôn bán giữa Việt Nam với Trung Quốc hay bất kỳ nước nào cung tuân theo quy luật cung – cầu và thời vụ. Chẳng hạn, có thời điểm hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc, nhưng nước khác cũng có mặt hàng tương tự với chất lượng tốt hơn, giá cạnh tranh hơn thì hàng của nước đó sẽ được chọn mà không phải Việt Nam.

Thậm chí, khi có yếu tố chính trị xen vào, Trung Quốc có thể “sáng nắng chiều mưa”, đó là chuyện bình thường.

“Không thể nói đối tác chơi xấu, có lúc họ mua, có lúc không mua, hoặc có nhiều thị trường khác cùng cung cấp sản phẩm đó… Việt Nam phải chấp nhận chuyện này,” ông Bảnh nói.

Vị chuyên gia này cho rằng: “Cái chết của nông sản Việt là xuất thô. Bởi bán thô, xuất thô nên hễ đối tác không mua là hàng chỉ có nước để thối, đem vất bỏ. Vì thế, ngoài hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, quan trọng là làm sao lúc hàng bán không được thì sẽ làm cái gì”.

Chuyên gia: Cái chết của nông sản Việt là xuất thô, phụ thuộc nhiều Trung Quốc
Nông sản Việt Nam vẫn chủ yếu xuất thô. (Ảnh: Danviet)

Để bớt nỗi lo nông sản Việt phụ thuộc thị trường Trung Quốc, TS. Bảnh nêu ra 3 bước Việt Nam cần thực hiện. Thứ nhất, cần phải quy hoạch, dự báo thị trường chính xác. Thực tế cho thấy, bà con nông dân thấy ai trồng cây gì, nuôi con gì bán được giá tốt là ào ào trồng cây ấy, nuôi con ấy. Đến khi thị trường không mua nữa thì hàng ùn ứ, cây chất đống ngoài đồng, chuồng bỏ tan hoang… Vì thế, việc dự báo cung cầu của thị trường rất quan trọng để từ đó xây dựng kế hoạch cho tốt.

Thứ hai là phải tìm cách bảo quản, tồn trữ cho tốt. Và thứ ba là phát triển công nghệ chế biến để sản phẩm không bán được thì có thể đa dạng hóa, chế biến sâu thành các sản phẩm khác.

Ông Bảnh đưa ra ví dụ về việc trái dừa đang gặp cảnh được mùa mất giá. Ban đầu mỗi trái dừa giá khoảng 70.000 đồng/chục, sau giảm xuống 30.000 đồng/chục và còn thấp hơn nữa. Thời điểm này hàng năm là đến vụ thu hoạch dừa tại các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, vì thế cung vượt cầu là điều dễ hiểu.

“Thế nhưng trái dừa có thể chế biến được thành nhiều sản phẩm khác, tại sao lại không làm? Tại sao cứ bán thô để rồi cuối cùng kêu lỗ?” ông đặt câu hỏi.

Ở các nước khác, hàng bán không được thì họ thu gom để chế biến, xử lý, đến khi có nhu cầu nhiều thì đem ra bán với giá cao. Vấn đề là bảo quản được và chế biến sâu thành các sản phẩm khác. Ở Việt Nam thì ngược lại, hàng bán không được thì chỉ đem vứt bỏ.

TS Bảnh cũng chỉ ra cảnh tương tự với lúa gạo, cho rằng Việt Nam không nên chỉ xuất thô mà cần tập trung vào các sản phẩm chế biến sau gạo, phụ phẩm, tăng giá trị gia tăng của hạt gạo.

Tính đầu năm 2018 đến nay, đã có rất nhiều mặt hàng phải kêu gọi giải cứu như củ cải, bí đao, dưa hấu, khoai lang, dứa, dừa, ớt… Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Phát triển đã từng thừa nhận rằng 2 khâu yếu nhất của hàng hóa nông sản Việt Nam là công nghiệp chế biến và tổ chức thị trường tiêu thụ.

Bộ Nông nghiệp cũng cho biết từ đầu năm đến nay đã có 8 nhà máy chế biến nông sản được xây dựng ở các vùng nông sản trọng điểm. Tuy con số này chưa nhiều, nhưng vẫn là một tín hiệu đáng mừng cho bà con nông dân.

Ngoài chế biến nông sản, một việc khác cần phải làm là tổ chức thị trường tiêu thụ sao cho không quá phụ thuộc thị trường Trung Quốc như hiện nay.

Năm ngoái, Trung Quốc đã thay Mỹ trở thành nước tiêu thụ hàng hóa lớn nhất của Việt Nam. Trong 5 tháng đầu năm 2018, Trung Quốc cũng vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 24,2 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2017 và chiếm 27% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.

Minh Tuệ