Chỉ với 500g Kali xyanua cũng đủ giết 2500 người trong một khoảng thời gian ngắn. Chính vì vậy nó đã được Đức Quốc xã sử dụng rất nhiều trong Thế chiến II, đặc biệt là chiến dịch diệt chủng người Do Thái. 

Từng được Đức Quốc xã sử dụng rất nhiều trong Thế Chiến II với nhiều hình thức khác nhau, Kali xyanua là nỗi kinh hoàng cho hàng triệu người dân châu Âu thời bấy giờ. 

Kali xyanua được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1704 tạo Berlin, Đức trong thí nghiệm của bác sỹ người Đức Johann Conrad Dippel. Ông đã trộn hỗn hợp máu khô với Kali và Ion Sunfat cho ra một hỗn hợp màu xanh đậm với tên gọi “màu xanh Berlin”. 

Năm 1782, một nhà khoa học Thụy Điển đã đun nóng hợp chất trên với axit sulfuric loãng. Ông nhận thấy một axit mới được hình thành là axit hydro xyanua (một dạng hợp chất của xyanua). Loại axit này tan nhiều trong nước.

Ngày nay, các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu cũng như hiểu biết sâu hơn về đặc điểm và tính chất của Xyanua cùng các hợp chất của chúng, đặc biệt là chất kịch độc Kali xyanua. 

Các hợp chất của Xyanua. (Ảnh: TinTM.com)

Kali xyanua – Kẻ giết người vô hình và tàn độc

Kali xyanua hay xyanua kali là tên gọi của một loại hợp chất hóa học không màu của kali có công thức KCN. Nó có mùi giống như mùi quả hạnh nhân, có hình thức bề ngoài giống như đường và hòa tan nhiều trong nước.

Theo phân loại trong hướng dẫn số 67/548/EEC của liên minh châu Âu thì nó là chất vô cùng độc (T+), có thể giết người với liều lượng thấp. Tuy vậy, là một trong số rất ít chất có khả năng tạo ra các phức chất của vàng (Au) hòa tan được trong nước, nó được sử dụng trong ngành kim hoàn để mạ hay đánh bóng bằng phương pháp hóa học. Đôi khi nó cũng được sử dụng trong ngành khai thác các mỏ vàng để tách vàng ra khỏi quặng vàng. 

Kali xyanua có hình dạng và màu trắng giống đường nên rất khó phân biệt. (Ảnh: Denver Westword)
Và mùi giống như quả hạnh nhân. (Ảnh: Cut & Paste)

Vì là một chất không màu cộng thêm mùi thơm giống hạnh nhân, chỉ cần ăn nhầm từ 200 đến 250 mg chất kịch độc này thì một người khỏe mạnh có thể mất ý thức trong vòng 30 giây đến 2 phút. Sau khoảng 1 tiếng thì rơi vào trạng thái hôn mê và có thể tử vong sau khoảng 3 giờ nếu không có các biện pháp điều trị kịp thời.

Chỉ cần 0,15 – 0,2 g chất độc xyanua là có thể khiến một người khỏe mạnh tử vong. Người nào ăn, uống hoặc hít phải chất độc trên thường có các triệu chứng như: chóng mặt, nhức đầu, nôn ói, cảm giác lo lắng, sợ hãi, tay chân lạnh, co giật, hôn mê… dẫn đến tử vong.

Cơ chế gây độc của Kali xyanua

Con người thường nhiễm độc xyanua theo 3 đường chính: Đường tiêu hóa thông qua thức ăn và nước uống; đường hô hấp vì axit xyanua có thể bay hơi và sau cùng xyanua cũng có thể xâm nhập qua da.

Giống như các hợp chất xyanua khác, xyanua kali gây độc bằng cách ngăn chặn sự trao đổi chất của tế bào. Xyanua kali có khả năng tạo liên kết hóa học với các heme trong máu (như hemoglobin), làm cho các tế bào không lấy được ôxy và bị hủy hoại.

Khi bị nhiễm độc Kali xyanua, người trúng độc thường có các biểu hiện như chóng mặt, buồn nôn, co giật và hoàn toàn có thể tử vong ngay sau đó nếu nồng độ Kali xyanua trong máu lớn hơn 1mg/l.

Cơ chế hoạt động của xyanua [C≡N]. (Ảnh: Emaze)

Các chất giải độc xyanua kali:

  • Khi bị ngộ độc xyanua kali, cần sơ cứu nạn nhân bằng cách cho thở bằng khí ôxy. Trong các phân xưởng có sử dụng xyanua kali, thường có sẵn bộ cấp cứu trong trường hợp nhiễm độc, bao gồm các chất amyl nitrit, nitrít natri, xanh methylen và natri thiosulphate.
  • Đường glucozơ có khả năng làm chậm lại đáng kể quá trình gây độc của xyanua kali, đồng thời bảo vệ các tế bào bằng cách tạo liên kết hóa học với xyanua kali. Tuy nhiên, Glucozơ không có khả năng giải độc nên nhanh chóng đưa đến bệnh viện ngay lập tức.

Sơn Tùng