Ngạn ngữ phương Tây có câu: “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau” (Great minds think alike). Trong cách dạy con, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Khổng Tử cũng có những điểm chung như thế.

Đức Phật dạy con trai La Hầu La

Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử Tất Đạt Đa của tộc Thích Ca, ở thành Ca Tỳ La Vệ. Năm Ngài 16 tuổi, Ngài kết hôn với công chúa Da Du Đà La. Năm Ngài 29 tuổi, sau khi công chúa Da Du Đà La vợ của Đức Phật Thích Ca sinh con trai là La Hầu La, Ngài từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, rời khỏi kinh thành ra đi tìm con đường giải thoát.

Trước giờ cáo biệt, thái tử cũng định bế đứa con đang ngủ một tí, nhưng sợ làm động vợ mình Da Du Đà La thức dậy, lại cản trở việc xuất gia. Nên khi nhìn con lần cuối, Ngài đã nói: “Hãy đợi đến khi ta thành Phật, sẽ trở lại thăm con!”.

Sáu năm sau khi Đức Phật rời bỏ gia đình, và một năm sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật trở về kinh thành. La Hầu La, lúc ấy bảy tuổi, theo lời mẹ dạy, đã chạy đến bên cha để xin thừa hưởng gia tài.

Nếu như ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa không bỏ kinh thành ra đi, thì bây giờ La Hầu La đã được truyền ngôi vua. Nhưng là một người đã buông bỏ hết tất cả, sống đời khổ hạnh, Đức Phật có thể trao lại cho con mình cái gì?

Đáp lời con trai La Hầu La, Đức Phật quay sang nói với Ngài Xá Lợi Phất, một đồ đệ thân tín của Đức Phật: “Hãy thâu nhận nó”. Như vậy, thay vì được ngôi vua, La Hầu La đã được thừa hưởng con đường đi của cha mình – con đường dẫn đến giải thoát.

Đức Phật dạy con trai La Hầu La
Như vậy, thay vì được ngôi vua, La Hầu La đã được thừa hưởng con đường đi của cha mình – con đường dẫn đến giải thoát. (Ảnh: pinterest.com)

Lúc lên tám tuổi, La Hầu La đã có lần nói dối. Sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời cha ngồi, rồi mang đến một thau nước cho cha rửa chân, theo phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi:

“Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối”.

Sau đó, Đức Phật hất đổ hết nước trong thau ra và nói: “Đời của một người tu cũng đáng vứt bỏ đi như vầy nếu như người đó cố tình nói dối”.

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói: “Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy nếu như người đó cố tình nói dối”.

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói: “Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này nếu như người đó cố tình nói dối”.

Sau đó Ngài dạy con: “Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa”.

“Cái gương dùng để làm gì?” – Ngài hỏi.

“Bạch Đức Thế Tôn, gương dùng để soi” – La Hầu La đáp.

Đức Phật lại dạy: “Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm”.

Sau này La Hầu La nỗ lực học tập, tu luyện tinh tấn và khai ngộ chứng quả La Hán.

Đức Phật dạy con trai La Hầu La
Sau này La Hầu La nỗ lực học tập, tu luyện tinh tấn và khai ngộ chứng quả La Hán… (Ảnh: suanboard.net)

Xem thêm: Đức Phật dạy: Mọi sự thế gian đều chỉ như bóng trăng trên mặt nước

Khổng Tử dạy con trai Bá Ngư

Thúc Lương Ngột, làm quan Đại phu nước Lỗ, là thân phụ của Đức Khổng Tử. Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ngài sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Năm 20 tuổi, vợ Ngài sinh con trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lý ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lý, tự là Bá Ngư.

Ngài mở lớp dạy học, truyền bá tư tưởng Nho gia, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, khôi phục lại nền đạo đức, lễ nhạc thời Chu Công, Văn Vương. Học trò khắp các nước tìm đến Ngài bái sư, có 3000 học trò. Bá Ngư, con trai của Ngài cũng là một trong số 3000 học trò đó. Câu chuyện Ngài dạy con được ghi lại trong Luận Ngữ như sau:

Trần Cang hỏi Bá Ngư rằng: “Anh có nghe được thầy dạy điều gì khác không?”

Bá Ngư trả lời: “Chưa. Có lần thầy đứng một mình, tôi rảo bước qua sân.

– Thầy hỏi: “Học Kinh Thi chưa?”

– Tôi đáp: “Chưa ạ”.

– Thầy nói: “Không học Kinh Thi, thì lấy gì để nói năng”.

Tôi lui ra và từ đó bắt đầu chăm chỉ học Kinh Thi.

Một hôm khác, thầy lại đứng một mình, tôi rảo bước qua sân.

– Thầy hỏi: “Đã học lễ chưa?”

– Tôi đáp: “Chưa ạ”.

– Thầy nói: “Không học lễ, lấy gì mà lập thân?”

Tôi lui ra và từ đó bắt đầu chăm chỉ học lễ. Tôi chỉ nghe được hai lần đó như thế thôi”.

Trần Cang lui ra, vui mừng nói: “Tôi hỏi một mà đắc được 3 điều: biết được Kinh Thi có tác dụng như thế nào, biết được Kinh Lễ có tác dụng như thế nào, lại biết người quân tử giữ khoảng cách với con, coi như học trò bình thường khác”.

Khổng Tử dạy con trai Bá Ngư
Trần Cang lui ra, vui mừng nói: “Tôi hỏi một mà đắc được 3 điều: biết được Kinh Thi có tác dụng như thế nào, biết được Kinh Lễ có tác dụng như thế nào, lại biết người quân tử giữ khoảng cách với con, coi như học trò bình thường khác”. (Ảnh: aminoapps.com)

Khổng Tử đánh giá nội dung của Kinh Thi rằng: “Kinh Thi có 300 bài thơ, chỉ một câu là quán thông nội dung, đó là: không nghĩ tà”.

Khổng Tử dạy học trò rằng: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân; hành hữu dư lực tắc dĩ học văn” (Dịch nghĩa: Ở nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà giữ chữ Tín, yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức; làm được đến vậy rồi mà còn dư sức thì hãy học văn – tức học Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch…).

Tư tưởng lớn gặp nhau: Sự tương đồng về cách dạy con của Đức Phật và Khổng Tử

Ngạn ngữ phương Tây có câu: “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau” (Great minds think alike). Chốn nhân gian, tư tưởng, trí huệ vĩ đại nhất chính là của các bậc Giác Giả, Thánh nhân. Đức Phật và Khổng Tử, tuy cảnh giới khác nhau, để tâm độ nhân khác nhau, theo con đường khác nhau, nhưng đều có rất nhiều điểm tương đồng. Chỉ xét riêng về phương thức giáo dục con cái cũng đã thấy những điểm giống nhau đó.

Thứ nhất, các Ngài đều không gần gũi con. Đức Phật xuất gia khi con trai mới sinh. Khổng Tử không xuất gia, nhưng cũng giữ khoảng cách với con trai, tuy ở cùng nhưng hầu như cha con chẳng gặp nhau. Bá Ngư chỉ có 2 lần đi ngang qua sân gặp Khổng Tử, Ngài nhân cơ hội đó gợi mở cho con, khuyên con học Kinh Thi và Kinh Lễ.

Đạo lý này thời hiện đại sẽ không thể hiểu được, sẽ cho rằng các Ngài là vô tình. Kỳ thực, nó chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Thuở xưa, trách nhiệm nuôi dạy con cái, gần gũi, tình cảm với con chính là người mẹ. Người cha ngoài trách nhiệm nuôi gia đình, hướng dẫn vợ con, thì trách nhiệm chính là đối với xã hội. Nho gia thì tu thân, tề gia để trị quốc và bình thiên hạ. Phật gia thì trì giới, thiền định, để khai ngộ, độ kỷ độ nhân, từ bi phổ độ chúng sinh.

Tư tưởng lớn gặp nhau: Sự tương đồng về cách dạy con của Đức Phật và Khổng Tử
Cách ứng xử và những triết lý mà thánh nhân để lại chính là kho tàng tri thức chân chính của nhân loại. (Ảnh: pixabay.com)

Ngoài ra, để giáo dục trẻ, cũng nên để trẻ tự lập, biết tự suy nghĩ, tự hành động, tự chịu trách nhiệm, người cha chỉ hướng dẫn, trông coi để tránh con cái lầm đường lạc lối. Người mẹ gần gũi tình cảm, thì cần người cha uy nghi nghiêm khắc, có nhu có cương, thì mới dạy dỗ trẻ em hữu hiệu. Chính vì vậy mà trong “Chu Tử trị gia cách ngôn” có khuyên rằng: “Thân cận trẻ ranh, lâu ngày lụy bản thân”.

Thứ hai, các Ngài đều nghiêm khắc hướng con từ rất sớm đi theo con đường đạo đức, trở thành người chân thật, chính trực, thiện lương.

Thứ ba, các Ngài đối xử với con mình không khác gì với các đệ tử khác, tất cả đều bình đẳng như nhau. Đối với các Ngài, mọi chúng sinh đều bình đẳng, đều tùy duyên hóa độ, không có sự phân biệt ruột thịt hay người dưng, người quen hay kẻ lạ, kẻ sang hay người hèn.

Thứ tư, các Ngài đều hướng cho con đi theo con đường học Đạo, theo bước chân các Ngài, nhưng các Ngài đều không ép buộc, đều không mong cầu, mà tùy kỳ tự nhiên, tùy duyên hóa độ, tùy căn cơ giáo hóa. La Hầu La sau đắc Đạo khai ngộ chứng quả La Hán. Bá Ngư không có thành tựu xuất sắc, nhưng ông nắm được phương pháp giáo dục con của cha, sau đó ông đã áp dụng dạy con trai là Khổng Cấp, tự Tử Tư. Tử Tư đã kế thừa được sự nghiệp của ông nội, trước tác sách Trung Dung, là một trong Tứ Thư kinh điển Nho gia.

Nam Phương