Những em bé được sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản có thể tăng nguy cơ tăng huyết áp tiến triển trong những năm đầu đời.

1. Công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technologies – ART)

Công nghệ hỗ trợ sinh sản đã được ứng dụng trên hai mươi năm qua và đã điều trị thành công nhiều trường hợp vô sinh. Số lượng trẻ em được sinh ra bằng ART chiếm khoảng 1,7% số trẻ em được sinh ra tại Hoa Kỳ hàng năm, và khoảng 2 – 5% số ca sinh ở những nước phát triển khác. Hiện nay trên thế giới có tổng cộng khoảng 6 triệu người được sinh ra theo phương pháp này.

Hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được thực hiện phổ biến nhất là thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI). Thụ tinh trong ống nghiệm được ứng dụng trên người từ năm 1978.

Ảnh: khoahoc.tv

Quy trình thực hiện có thể được tóm tắt như sau:

  • Người mẹ được chỉ định sử dụng thuốc kích trứng và được theo dõi đến khi noãn trưởng thành.
  • Chọc hút trứng
  • Lấy tinh trùng chồng
  • Đưa trứng và tinh trùng vào trong ống nghiệm, tinh trùng sẽ tự tìm gặp trứng và quá trình hình thành phôi diễn ra trong trong ống nghiệm.
  • Theo dõi sự phát triển của phôi trong 2-3 ngày.
  • Chọn phôi và chuyển phôi vào tử cung 2 hoặc ngày sau chọc hút trứng.

Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được thực hiện thành công từ những năm 1990 và được ứng dụng rộng rãi đến nay. Quy trình lấy trứng và tinh trùng giống như kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Sau đó tinh trùng được đưa vào bào tương trứng bằng kim tiêm. Kỹ thuật này thường được chỉ định cho những trường hợp vô sinh nam do tinh trùng ít hoặc yếu, dị dạng, thậm chí tinh trùng được lấy ra từ mào tinh là tinh trùng chưa trưởng thành.

2. Những lo ngại về kết cục y khoa

Đã có nhiều lo ngại về kết cục y khoa của công nghệ hỗ trợ sinh sản. Quá trình tiêm tinh trùng vào bào tương trứng cũng có thể gây tổn thương cho trứng, từ đó chất lượng phôi không đảm bảo. Ngoài ra còn có các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến chất lượng phôi như: môi trường nuôi cấy trứng, tinh trùng, môi trường thụ tinh trong ống nghiệm, nhiều loại thuốc được sử dụng từ lúc kích thích nang noãn, kích thích rụng trứng cho đến lúc chuyển phôi v.v.

Đa thai, trẻ sinh ra nhẹ cân là hai kết cục thường thấy.

Tuy nhiên, nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn đã khẳng định rằng không có bất thường nào về mặt sức khỏe đối với những trẻ em ART.

3. Những bằng chứng về biến đổi hệ tim mạch trên trẻ ART

Đến nay, những em bé được sinh ra bởi ART đã hơn 20 tuổi và được theo dõi sức khỏe chặt chẽ. Và ngày càng có nhiều bằng chứng về bệnh lý cao huyết áp tiến triển và biến chứng tim mạch trên những người ART.

Trong phòng thí nghiệm, lý thuyết chuột sinh ra theo phương pháp ART có huyết áp động mạch cao đã được xác nhận.

Năm 2012, tạp chí AHA Journal đã đăng bài nghiên cứu mô tả về rối loạn hệ thống tuần hoàn phổi trên những trẻ em ART. Kết luận của nghiên cứu ghi nhận có sự thoái hóa chức năng mạch máu trên trẻ ART khỏe mạnh; các rối loạn này không được ghi nhận trên nhóm chứng.

Nghiên cứu quan sát trên người được công bố năm 2015 trên tạp chí Hội tim mạch Châu Âu đã ghi nhận những biến đổi trên hệ tim mạch của những người sinh ra bằng ART. Theo kết quả nghiên cứu, các tác giả nhận thấy có thay đổi cấu trúc lớp nội mạc mạch máu, độ cứng thành mạch tăng lên, rối loạn chức năng nội mô, cao áp phổi và rối loạn chức năng thất phải. Nhóm tác giả cũng đã xác định những yếu tố nguy cơ và kiến nghị cách dự phòng và hạn chế biến chứng.

Sự thay đổi hệ tuần hoàn của trẻ ART. (Ảnh: Oxford Academic)

Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Journal of the American College of Cardiology ngày 3 tháng 9 năm 2018 do Quỹ khoa học quốc gia Thụy Sĩ, Quỹ Nicide Placide, Hiệp hội tăng huyết áp Thụy Sĩ, Hội Tim mạch Thụy Sĩ và Mach-Gaensslen Stiftung Schweiz hỗ trợ. Nghiên cứu này có thời gian theo dõi trong 5 năm. Bác sĩ Emrush Rexhaj và đồng nghiệp đã đánh giá hệ thống tuần hoàn của 54 người trẻ, khỏe mạnh được sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản. Đột tuổi trung bình của nhóm người này là 16. Nhóm chứng gồm 43 người. Các tiêu chí lựa chọn mẫu nghiên cứu của hai nhóm tương đồng nhau, gồm:

  • Tuổi
  • Cân nặng lúc sinh
  • Tuổi thai lúc sinh
  • Chỉ số khối cơ thể BMI
  • Tình trạng hút thuốc

Các chỉ số được theo dõi và đánh giá gồm:

  • Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương
  • Chức năng mạch máu
  • Độ cứng của thành mạch máu
  • Độ dày lớp áo nội mô mạch cảnh
  • Các xét nghiệm máu liên quan đến bệnh lý tim mạch

Sau 5 năm tiến hành đánh giá hai nhóm lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã đánh giá chức năng mạch máu và đo huyết áp huyết áp 24 giờ liên tục ở hai nhóm thiếu niên này. Kết quả cho thấy chỉ số huyết áp tâm thu và tâm trương ở nhóm trẻ em ART cao hơn nhóm chứng. Một điểm quan trọng được ghi nhận là có 8 thiếu niên ART đạt đến chuẩn tăng huyết áp (>130/80 mm Hg) trong khi nhóm chứng chỉ có 1 em. Nghiên cứu đã có dữ liệu huyết áp của hai nhóm vào 5 năm trước đây không có sự khác biệt giữa nhóm ART và nhóm chứng.

Hạn chế của nghiên cứu này bao gồm chỉ có trẻ em sinh đơn được nghiên cứu, cũng như những người tham gia được tuyển dụng từ một trung tâm sinh sản. Trẻ em sinh non, đa thai, trọng lượng sơ sinh thấp và tiền sản giật (tất cả các yếu tố nguy cơ tim mạch đã biết) đã được loại trừ khỏi nghiên cứu. Những hạn chế này có thể dẫn đến những người tham gia nghiên cứu có nguy cơ tim mạch thấp hơn dân số chung.

Nhóm tác giả kết luận rằng, những thanh niên sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản được ghi nhận có hiện tượng lão hóa mạch máu sớm, có thể tiến triển thành bệnh lý tăng huyết áp và rối loạn chức năng mạch máu.

Từ những kết quả nghiên cứu này, các nhà lâm sàng có cơ sở cân nhắc đến việc lên kế hoạch theo dõi và điều trị bệnh lý tăng huyết áp sớm và các biến chứng mạch máu liên quan trên thanh thiếu niên được sinh ra bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản.

Theo Journal of the American College of Cardiology
Bs Nguyễn Đức Trường