Nhiều người Việt Nam đã thuộc nằm lòng câu nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Đây cũng chính là câu mở đầu của bộ sách giáo dục trẻ em truyền thống “Tam tự kinh”, từng được ngợi ca và sử dụng rộng rãi ở các nước Á Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. “Tam tự kinh” chỉ có trên 1000 chữ nhưng bao trùm cả văn học, lịch sử, triết học, thiên văn, địa lý, luân thường đạo lý. Sách thích hợp với trẻ nhỏ nhờ hình thức thơ 3 chữ ngắn, đơn giản, có thể hát như đồng dao nghe rất vui tai.

Tiếp theo bộ kinh điển giáo dục trẻ em “Phép tắc người con” (Đệ tử quy), Đại Kỷ Nguyên hy vọng rằng bộ sách “Tam tự kinh” này sẽ giúp các em nhỏ và mỗi người chúng ta nuôi dưỡng bản tính thiện lương, tịnh hóa tâm hồn, tìm lại và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp trong thời buổi đạo đức suy thoái hôm nay.

Kinh văn

Bện cói viết, cạo thẻ tre

Không có sách, vẫn cố gắng.

Tóc treo xà, dùi đâm chân

Không người dạy, tự khổ học.

Diễn giải 

Lộ Ôn Thư thời Tây Hán cắt lá của cỏ cói bện thành sách, mượn người cuốn “Đường thư” sao chép ra để đọc. Công Tôn Hoằng vót đi phần vỏ tre để làm ra sách thẻ tre, mượn người cuốn “Xuân Thu” sao chép ra để đọc. Hai người họ ngay cả sách cũng không có mà còn biết nỗ lực đọc sách. 

Tôn Kính thời nhà Tấn mỗi ngày đọc sách đọc đến đêm khuya, vì sợ ngủ thiếp đi, bèn lấy tóc buộc lại, rồi treo sợi dây buộc tóc lên xà nhà. Tô Tần thời Chiến Quốc gắng sức đọc sách, lúc đêm thâu sợ ngủ gật quên việc đọc sách, bèn dùng dùi đâm vào bắp đùi. Hai người họ không cần người khác hướng dẫn đốc thúc đã biết phải cần cù đọc sách rồi. 

Câu chuyện tham khảo: Tinh thần khắc khổ hiếu học của Lộ Ôn Thư và Công Tôn Hoằng

Lộ Ôn Thư là người huyện Cự Lộc, tỉnh Hà Bắc thời Tây Hán, gia cảnh bần cùng, phải chăn thả dê cho người. Ông rất thích đọc sách nhưng lại không mua được quyển sách nào. Trung Quốc thời đó còn chưa phát minh ra giấy, khi viết chữ thì sử dụng thẻ gỗ, thẻ tre hoặc lụa, cho nên sách thời đó rất quý, chỉ có con em gia đình làm quan hoặc phú hộ mới mua được sách mà đọc. 

Có một ngày, ông đang thả dê, thấy trong đầm nước mọc đầy cỏ cói, đột nhiên nhanh trí nghĩ ra, vì sao không lợi dụng cỏ cói bện thành vở để viết chữ? Thế là ông hái rất nhiều cỏ cói, cắt thành tấm nhỏ, bện lại rồi đóng thành quyển, sao chép quyển “Thượng thư” đã mượn lên đó. Lộ Ôn Thư đã đọc sách vất vả như thế, sau này được tiến cử làm Hiếu liêm (*), làm quan đến Thái phủ quận Lâm Hoài, trở thành một nhân vật rất nổi tiếng.

Cùng thời đó có một người tên Công Tôn Hoằng, cũng vì nhà nghèo mà không có cách nào mua sách, mãi đến bốn mươi mấy tuổi vẫn còn chăn lợn cho người. Ông cảm thấy bản thân tuổi tác đã cao, lại cả ngày làm bạn với lợn, là kẻ bất tài…, nên bèn hạ quyết tâm nỗ lực đọc sách. Nhưng ông lại không có tiền mua sách, vì thế nên cảm thấy rất buồn lòng.   

Có một ngày, ông đang chăn lợn trong rừng tre, đột nhiên nghĩ đến tre là vật liệu viết chữ rất tốt. Thế là ông chặt nhiều tre, vót đi phần vỏ màu xanh, chế thành từng mảnh từng mảnh tre, lại mượn quyển “Xuân Thu” của người khác, sao chép trên thẻ tre, tận dụng thời gian nhàn rỗi mà đọc. Sau này, ông cũng trở thành một vị học giả, làm quan đến Thừa tướng. 

Hai nhân vật này điều kiện gia đình vô cùng nghèo khó nhưng bản thân họ lại hăng hái nỗ lực đọc sách, khiến cho những người vẫn thường oán trách điều kiện khách quan, hoàn cảnh không thuận lợi phải ngẫm lại mình, đồng thời thu được khích lệ to lớn. 

Xem phim hoạt hình Tam Tự Kinh: Câu chuyện Lộ Ôn Thư khắc khổ học tập

Ghi chú: 

(*): Hiếu liêm: tức hiếu tử (con hiếu thuận) và liêm lại (thư lại thanh liêm). Nho sinh là con hiếu hoặc thư lại liêm khiết được quan địa phương xét chọn đề cử lên làm chức quan hiếu liêm. Bắt đầu từ đầu năm Nguyên Quang thứ nhất thời Hán Vũ Đế có lệnh cho toàn quốc mỗi quận đề cử một người con hiếu và một thư lại liêm khiết để triều đình bổ nhiệm làm quan. Sau này chuyển thành thi cử. Đời Minh, Thanh cũng gọi cử nhân là hiếu liêm.

Phụ chú

Nguyên văn chữ Hán

披蒲編,削竹簡

彼無書,且知勉。

頭懸樑,錐刺股

彼不教,自勤苦。

Âm Hán Việt

Phi bồ biên, tước trúc giản

Bỉ vô thư, thả tri miễn.

Đầu huyền lương, trùy thích cổ

Bỉ bất giáo, tự cần khổ.

Pinyin Hán ngữ

Pī pú biān, xiāo zhú jiǎn

Bǐ wú shū, qiě zhī miǎn.

Tóu xuán liáng, zhuī cì gǔ

Bǐ bù jiào, zì qín kǔ.

Chú giải

(1) Phi: tách ra. 

(2) Bồ biên: lấy cỏ cói bện thành sách. Bồ là cỏ cói. 

(3) Tước: vót đi phần vỏ xanh của tre/trúc.

(4) Trúc giản: từng mảnh tre đã bóc đi phần vỏ xanh bên ngoài. 

(5) Bỉ: anh ta, họ (ngôi thứ ba).

(6) Miễn: nỗ lực. 

(7) Huyền: treo trên không trung.

(8) Lương: xà nhà. 

(9) Trùy: cái dùi, vật bằng sắt nhỏ dài mà đầu nhọn. 

(10) Cổ: bắp đùi.

(11) Bất giáo: không cần người khác hướng dẫn. 

(12) Cần khổ: cần cù hết lòng đọc sách. 

Ảnh minh họa: Chụp màn hình video Chánh Kiến.

Đọc sách bút đàm

Bài trước đã lấy đức Khổng Tử, Tể tướng Triệu Phổ làm ví dụ để nói về thái độ tu dưỡng của Thánh hiền và danh tướng thời cổ đại. Bài này lại lấy hai cổ nhân với thân thế bần khổ, xuất thân thấp kém làm ví dụ. Câu chuyện về họ minh chứng rằng ai ai cũng có thể cầu học, chỉ cần có quyết tâm thì điều kiện bên ngoài nào cũng không thể cản trở bước chân học hỏi, đều có thể đạt được thành công.

Qua đây, chúng ta còn có thể thấy thời cổ đại, người ta không cho rằng thân phận và địa vị quan trọng đến mức như thế; ai ai cũng có thể đọc sách, ai ai cũng đều có tư cách đọc sách; không có quan niệm đẳng cấp, học vấn cũng không thuộc về giai cấp đặc quyền nào.

Giáo dục thời xưa là do Khổng Tử lấy văn hoá mà Thánh vương thời thượng cổ lưu lại mà tổng kết, rồi truyền xuất ra. Người xưa hầu như ai ai cũng xem trọng học vấn, thậm chí có thể khắc phục các loại khó khăn, không từ bỏ việc học. Nguyên nhân lớn nhất nằm ở chỗ người ta hiểu được bản thân rốt cuộc học tập vì điều gì.

Khổng Tử chấn hưng giáo dục và thu nhận đệ tử. Ông bồi dưỡng nên những người quân tử có nhân nghĩa, đạo đức, tu dưỡng; khiến họ hiểu được làm thế nào tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cho nên, Nho sinh cổ đại đều có chí hướng an bang trị quốc, tế thế cứu dân. Đây chính là chí hướng cơ bản muôn đời không đổi của Nho sinh. Không có chí hướng này thì không gọi là Nho sinh.

Chữ Chí (志: ý chí) là do chữ Sĩ (士: người có học) và chữ Tâm (心: tấm lòng) tổ hợp thành. Cũng chính là nói, nghĩa gốc của lập chí chính là tâm nguyện muốn trở thành sĩ đại phu (học giả). Sĩ đại phu là giai tầng có học vấn của Nho gia và mang trong mình sự tu dưỡng. Chí hướng lớn nhất của họ là an bang trị quốc, đức trị thiên hạ, làm cho thiên hạ thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp.

Giai tầng sĩ đại phu này không cố định, ai ai cũng có thể dựa vào đọc sách mà có được học vấn, tiến nhập vào giai tầng sĩ đại phu. Ví dụ như người ta đi từ tiểu học tiến vào trung học, rồi đại học, tiếp nữa là thạc sĩ, tiến sĩ… Trong một chừng mực nào đó thì người có học vị từ đại học trở lên là tương đương với sĩ đại phu (học giả) thời cổ đại.

Thực tế có đôi chút không giống. Là vì bản chất và mục đích của giáo dục cổ đại là không giống với giáo dục ngày nay. Trung tâm của giáo dục quá khứ là bồi dưỡng đạo đức, có thể khiến người ta biến thành vô tư vị tha (quên mình, vì người), chí hướng cao xa, được người đời tôn kính. Cho nên những học sinh thời đó có thể tích cực cầu học, hoàn toàn phát tự nội tâm, có mục tiêu thực hiện giá trị nhân sinh một cách tích cực. 

Kỳ thực, dẫu ở thời đại nào, ai ai cũng nên ôm giữ chí hướng mà nghiên cứu đọc sách, mới có thể đủ quyết tâm và ý chí nhẫn khổ đến thế để truy tầm học vấn. Nếu không hiểu được mục đích đọc sách của người xưa, hậu nhân sẽ không hiểu được cách làm và ý chí phi thường “tóc treo xà, dùi đâm chân” của họ.

Theo Chánh Kiến

Mạn Vũ biên dịch

Video: Không phải bởi tài năng và mưu lược, vì sao Gia Cát Lượng được cả nước Nhật tôn sùng?

videoinfo__video3.dkn.tv||f506c1aaf__