Những năm 228 – 234, Gia Cát Lượng nhiều lần đem quân Bắc phạt Tào Nguỵ mà vẫn không thành công. Quân Tào cũng phản công vài lần nhưng bất thành. Cuối cùng, Thừa tướng Gia Cát Lượng vất vả lâu ngày, lâm bệnh mà mất ở gò Ngũ Trượng, đúng như lời thề của mình: “Cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi”.

Thế chân vạc Tam Quốc mạnh yếu đối lập

Năm 223, Thục Hán Chiêu Liệt Hoàng đế Lưu Bị bị Đại đô đốc Đông Ngô là Lục Tốn đánh bại tại cuộc chiến Di Lăng. Sau trận thua này, quốc lực Thục Hán sa sút trầm trọng. Thừa tướng Gia Cát Lượng tận tuỵ phò tá Hậu chủ Lưu Thiện, nhờ đó thực lực quốc gia dần dần phục hồi. Đồng thời, Gia Cát Lượng lại phái Trần Chấn, Đặng Chi sang hoà hiếu, kết lại đồng minh với Đông Ngô. Năm 225, Gia Cát Lượng xuất quân nam chinh, bình định phiến loạn vùng Nam Man. Rất nhiều cơ sở cho cuộc Bắc phạt đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Năm 226, Nguỵ Văn Đế Tào Phi lâm bệnh chết. Con là Tào Duệ kế vị, xưng là Nguỵ Minh Đế. Lúc ấy, trong triều Nguỵ nhiều mưu sĩ hiến kế nên thừa lúc Gia Cát Lượng đang ở Hán Trung mà xuất binh thảo phạt Thục. Tào Duệ cũng có ý đó nhưng khi ấy Tôn Tư can rằng vùng Hán Trung, Nam Trịnh đất đai hiểm trở, nếu xuất đại quân tất khiến thiên hạ kinh động, hao tổn không nhỏ. Thay vào đó, nếu xây dựng thực lực quốc gia cường hùng, Thục, Ngô tự phải đầu hàng. Bởi thế, Tào Duệ lại tạm hoãn xuất binh.

Gia Cát Lượng thấy rằng vua Nguỵ mới lập, chính là cơ hội tốt để Bắc phạt. Ngoài ra, xuất quân Bắc phạt, khôi phục cố đô Trường An cũng chính là đối sách lớn mà Gia Cát Lượng đề ra từ khi còn ở Long Trung trong buổi tiếp kiến Lưu Bị. Nhưng xét tình thế lúc bấy giờ, trong 3 nước thời Tam Quốc thì Thục Hán là thực lực kém nhất. Cơ hội Bắc phạt thành công không cao, nếu không muốn nói là viển vông.

Khi ấy, Tào Nguỵ có ước chừng 3,4 triệu nhân khẩu, binh lực 43 vạn. Đông Ngô có khoảng 2,3 triệu dân, binh lực 23 vạn. Còn nước Thục, nhân khẩu chỉ chừng gần 1 triệu người, binh lực vỏn vẹn 12 vạn. Trong lần đầu Bắc phạt, Gia Cát Lượng đã huy động khoảng 10 vạn quân, nghĩa là hầu như dốc toàn lực. Quân Nguỵ trước sau cũng huy động chừng 20 vạn quân chống đỡ.

Sự chênh lệch rõ rệt về lực lượng đó khiến cho ý định diệt Tào của quân Thục Hán trở nên vô cùng khó khăn, tựa hồ như nhiệm vụ bất khả thi. Đặc biệt là sau khi mất Kinh Châu, quân Thục đã mất đi một con đường tiến quân Bắc phạt chiến lược. Hai ngả Bắc phạt mà Gia Cát Lượng vạch ra khi còn ở Long Trung đã không còn. Dù vậy, với quyết tâm của mình, Gia Cát Lượng vẫn theo đuổi đến cùng kế hoạch Bắc tiến, đưa quân vượt muôn trùng núi non hiểm trở từ Tây Thục tiến vào Trung Nguyên.

Năm 227 (tức Kiến Hưng năm thứ 5), Gia Cát Lượng thống suất đại quân ra trú tại Hán Trung, chuẩn bị Bắc phạt. Trước khi đi, ông tấu lên Hậu chủ Lưu Thiện rằng: “Tiên đế sáng nghiệp, nửa đường băng hà. Nay thiên hạ chia ba, Ích Châu suy yếu, sự nguy cấp tồn vong đã ở ngay trước mắt… Nay phía nam đã định, vũ khí đã đủ, chính là lúc thống lĩnh ba quân, Bắc định Trung Nguyên, phục hưng Hán thất, lấy lại cố đô. Như thế thần cũng báo được ơn tiên đế mà cũng tỏ được lòng trung với bệ hạ“. Sử sách sau này gọi đó là “Tiền xuất sư biểu”.

Trong những lời lẽ khẩn thiết của mình, Gia Cát Lượng đã chỉ rõ cho Hậu chủ Lưu Thiện trong tình thế Tam Quốc phân tranh thì nước Thục ở vào địa vị yếu nhược nhất. Do đó cần phải kiến quốc hăng hái, trong sửa sang chính trị, ngoài rèn luyện binh mã, không thể thỏa mãn với cục diện yên ổn tạm thời, ngồi giữ một xó Thục Hán hẻo lánh mà quên đi nhiệm vụ khôi phục Trung Nguyên, trùng hưng Hán thất.

“Tam Quốc chí” chép rằng, Gia Cát Lượng vô cùng lo lắng Hậu chủ trẻ người non dạ, không phân rõ thiện ác, đúng sai nên cố công dặn dò nhà vua phải “thân hiền thần, xa tiểu nhân“, trọng dụng Quách Du Chi, Phí Y, Đổng Doãn, Hướng Sủng, Trương Duệ, Tưởng Uyển. Ông cũng hy vọng Lưu Thiện rộng đường dư luận, khiêm nhường, lắng nghe điều thiện, làm theo lẽ phải, thưởng phạt phân minh. Lưu Thiện đọc biểu tấu của Gia Cát Lượng, liền đồng ý hạ chiếu xuất quân, khởi đầu cho những cuộc chiến Bắc phạt của nước Thục.

Miếu thờ mô tả cảnh Lưu Bị ủy thác lại triều đình cho thừa tướng Gia Cát Lượng (ảnh: Wikipedia).

Lần Bắc phạt thứ nhất

Mùa xuân năm 228 (tức Kiến Hưng thứ 6), Gia Cát Lượng thống lĩnh 10 vạn quân tiến ra Hán Trung, chuẩn bị Bắc phạt. Ban đầu, Khổng Minh phao tin rằng sẽ cho quân đi theo đường Tà Cốc, đánh vào huyện My, lại sai Triệu Vân, Đặng Chi mang quân nghi binh ra đánh lấy Cơ Cốc, làm ra vẻ như muốn từ đường Tà Cốc đánh lên phía Bắc.

Tào Ngụy cũng gấp phái Đại tướng quân Tào Chân dẫn binh nghênh chiến. Từ mốc thời gian này cho đến năm 234, khi Gia Cát Lượng mất ở gò Ngũ Trượng, Thục và Ngụy trước sau giao chiến cả thảy 6 lần. Trong đó, 5 lần Thục Hán phát động tấn công còn 1 lần là Ngụy đánh trả, Thục phòng ngự.

Sau khi dùng kế nghi binh, lừa được quân Ngụy, Gia Cát Lượng tự mình cầm đại quân tiến ra Kỳ Sơn. Quân Thục hàng ngũ nghiêm chỉnh, sĩ khí hăng hái, thế như trẻ che, nhanh chóng giành được 3 quận Nam An, Thiên Thủy và An Định. Không chỉ đánh thành, chiếm đất, Gia Cát Lượng còn dụ hàng được tướng ngụy là Khương Duy khiến cả nước Ngụy bấy giờ rung chuyển.

Việc quân Thục bất ngờ tấn công, đánh thành, chiếm đất đã khiến cả vùng Quan Trung chấn động. Vua tôi nhà Ngụy vô cùng hoảng sợ. Ngụy Minh Đế Tào Duệ vội vã tự mình dẫn quân tiến ra phía tây Trường An trấn thủ, đồng thời phái đại tướng quân Trương Cáp lãnh binh nghênh chiến Gia Cát Lượng.

Gia Cát Lượng lệnh cho Mã Tốc cầm quân đi trước, nghênh chiến với Trương Cáp ở Nhai Đình (nay là phía nam huyện Thiên Thủy, Cam Túc). Mã Tốc không nghe lời Gia Cát Lượng dặn, đóng quân trên núi, bị Trương Cáp đánh bại. Mất đi yếu địa Nhai Đình, toàn bộ cuộc chiến của quân Thục lâm vào thế bí.

Quân của Triệu Vân, Đặng Chi vì binh ít địch mạnh, cuối cùng cũng thất bại ở Cơ Cốc. Tuy nhiên, quân Thục gom lại cố thủ, cũng không đến nỗi phải đại bại. Khi đại quân rút lui, Triệu Vân tự mình đoạn hậu, toàn quân về được Hán Trung, một người một ngựa cũng không tổn thất. Sau chiến bại Nhai Đình, quân Thục ly tán, mỗi người một nơi, duy chỉ có Vương Bình cầm một nghìn quân, giữ vững doanh trại, nổi trống nghi binh. Trương Cáp nghi có quân phục, không đuổi đánh nữa. Vương Bình chỉnh đốn quân đội, thu nhặt tàn binh, bình tĩnh rút về.

Gia Cát Lượng lần này xuất binh, dời được hơn nghìn hộ ở Tây Thành vào Hán Trung, trở về ban thưởng cho Vương Bình, lại thu hàng được danh tướng Khương Duy. Ra quân Bắc phạt lần thứ nhất cũng không đến nỗi công cốc vậy. Mã Tốc dù rất tài hoa, giỏi biện luận, là thân tín của Gia Cát Lượng nhưng vì không giữ nghiêm quân kỷ, trái lệnh làm mất Nhai Đình nên bị chém đầu thị chúng.

Gia Cát Lượng tự nhận tội mình, dâng tấu lên Hậu chủ nói: “Thần vốn tài tầm thường, lạm giữ quyền lớn, thân cầm cờ mao, lưỡi việt, đôn đốc ba quân, không biết nghiêm phép mà làm việc cho cẩn thận, đến nỗi Nhai Đình xảy chuyện trái lệnh, Cơ Cốc có việc không hay. Đó là lỗi tự thần không biết dùng người, liệu việc tối tăm. Nghĩa Xuân Thu trách tại một người, thần thực không trốn khỏi tội ấy. Vậy xin giáng xuống ba bậc, để phạt lỗi lầm. Thần hổ thẹn xiết bao, cúi đợi chiếu mệnh!“.

Hậu chủ Lưu Thiện bất đắc dĩ bèn phải giáng Gia Cát Lượng xuống ba cấp, làm Hữu tướng quân, coi việc Thừa tướng, tổng đốc quân mã như cũ.

Tranh vẽ minh họa Gia Cát Lượng khi ra trận (ảnh: Wikipedia).

Bắc Phạt lần thứ hai

Năm 228 (tức Kiến Hưng năm thứ 6), Đại tư mã nước Ngụy là Tào Hưu bị Đại đô đốc Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại ở Thạch Đình (nay là vùng đông bắc huyện Tiềm Sơn, An Huy). Mùa đông năm ấy, Gia Cát Lượng lại xuất quân đánh Ngụy. Theo “Hán Tấn xuân thu” chép lại, Gia Cát Lượng được tin Tôn Quyền phá Tào Hưu, quân Ngụy sang phía đông tiếp ứng, Quan Trung binh lực yếu ớt, lại dâng biểu lên Hậu chủ xin đi phạt Ngụy, sử gọi là “Hậu xuất sư biểu”.  

Tháng 12 năm ấy, Gia Cát Lượng dẫn quân tiến lên phía Bắc, ra Tán Quan (nay là vùng tây nam Bảo Kê, Thiểm Tây), bao vây Trần Thương (phía đông Bảo Kê ngày nay). Tuy nhiên đại tướng Tào Chân phía quân Ngụy đã có chuẩn bị từ trước, sai tướng Hách Chiêu cố thủ ở Trần Thương. Quân Thục đánh thành Trần Thương ròng rã 20 ngày nhưng không sao hạ nổi, lương thực dần cạn.

Ngay lúc ấy, Trương Cáp dẫn viện binh đến tiếp ứng cho Trần Thương. Gia Cát Lượng không còn lựa chọn nào khác, bèn phải lui về Hán Trung. Trên đường rút lui, Gia Cát Lượng cho đặt phục binh, giết được bộ tướng của Trương Cáp là Vương Song.

Bắc phạt lần thứ ba

Năm 229 (tức Kiến Hưng năm thứ 7), Gia Cát Lượng phát động chiến dịch Bắc phạt lần thứ ba, sai Trần Thức công phá 2 quận Vũ Đô (nay là huyện Thành, Cam Túc), Dương Bình (nay là vùng tây bắc huyện Văn, Cam Túc). Tướng ngụy là Quách Hoài dẫn binh lại ứng cứu nhưng quân Thục đã chiếm xong 2 quận. Gia Cát Lượng trấn an các nơi, phủ dụ các dân tộc thiểu số Đê, Khương, cho quân đóng giữ, còn mình dẫn đại binh về Hán Trung. Nhờ cướp được 2 quận Vũ Đô, Dương Bình, Hậu chủ Lưu Thiện phục chức Thừa tướng cho Gia Cát Lượng.

Tào Ngụy phản kích

Mùa thu năm 230 (tức Kiến Hưng năm thứ 8), đại quân Tào Ngụy chủ động tấn công Hán Trung, chia làm 3 đạo: Tư Mã Ý từ Tây Thành, Trương Cáp từ hang Tí Ngọ, Tào Chân từ Tà Cốc. Gia Cát Lượng cho quân giữ chắc thành trì, tăng cường phòng thủ. Ngoài ra, ông còn điều Lý Nghiêm xuất 2 vạn quân tiến tới Hán Trung, chặn đánh quân Tào. Khi ấy trời mưa liên tiếp nhiều ngày, con đường ở hang Tý Ngọ và Tà Cốc không thông. Quân Tào đành phải rút lui. Cùng năm đó, Ngụy Diên cũng đại phá Thứ sử Ung Châu Quách Hoài ở Dương Khê.

Đất Thục núi cao, đường hiểm, dễ thủ khó công, nhưng cũng khiến cho đường vận lương của quân Thục thêm nhọc mệt. Đây chính là một trong những lý do khiến quân Thục không thể trường kỳ tác chiến ở đất Ngụy.

Để giải quyết dứt điểm vấn đề vận lương này, Gia Cát Lượng đã làm cách nào? Mời quý độc giả đón đọc ở kỳ tới.

Tiểy Lý biên dịch
Theo Epochtimes

Video: Không phải bởi tài năng và mưu lược, vì sao Gia Cát Lượng được cả nước Nhật tôn sùng?

videoinfo__video3.dkn.tv||f506c1aaf__