Hoàng hôn, trong chùa tĩnh lặng yên ả, nơi lư hương khói hương tràn đầy, các hòa thượng đang dùng bữa tối.

Sách chép rằng, Khổng Tử sau khi đến bái kiến Lão Tử, trở về nhà ba ngày sau trầm mặc không nói lời nào, cuối cùng chỉ nói một câu… Sau này, Khổng Tử viết trong Luận ngữ: “Triêu văn đạo, tịch khả tử”, nghĩa là buổi sáng được nghe Đạo, buổi tối chết cũng cam lòng. Vậy vì sao Khổng Tử lại trân quý Đạo ấy hơn cả sinh mệnh của mình?

Năm 538 trước công nguyên, Khổng Tử cùng với đệ tử của mình là Nam Cung Kính Thúc sang nước Chu để thỉnh giáo Lão Tử. Lão Tử thấy Khổng Tử vượt ngàn dặm xa xôi mà đến thì vô cùng cao hứng. Lão Tử bèn hỏi: “Ông cho rằng mình đã đắc Đạo rồi chứ?”. Khổng Tử trả lời: “Tôi tìm Đạo đã 27 năm nay nhưng vẫn chưa gặp được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể hiến cấp cho con người thì người ta sẽ tranh giành nó để dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được thì người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền cho con cái mình. Nhưng những chuyện nhứ thế là không thể được. Nguyên nhân rất đơn giản, Đạo ấy là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người bình thường được”.

Được Lão Tử chỉ bảo, Khổng Tử học hỏi được rất nhiều điều, lưu lại nơi ấy mấy ngày rồi mới chào từ biệt Lão Tử.

Lúc đi đến bờ sông Hoàng Hà, thấy nước sông cuồn cuộn chảy, khí thế như vạn mã lên đường, thanh âm như hổ gầm sấm nổ, Khổng Tử đứng bên bờ sông một lúc lâu rồi bất giác cảm thán: “Chảy hoài như thế ư, ngày đêm không ngừng nghỉ! Nước Hoàng Hà chảy mãi không thôi, năm tháng đời người trôi đi chẳng dứt. Nước sông chẳng biết chảy đi đâu, đời người chẳng biết sẽ về nơi nao!”.

Lão Tử nghe vậy liền bảo: “Đời người giữa trời đất là cùng trời đất mà hợp thành một thể. Trời đất là tự nhiên, đời người cũng là tự nhiên vậy; con người có ấu – thiểu – tráng – lão (trẻ con – thiếu niên – tráng niên – người già) cứ thế mà biến hóa, trời đất có xuân – hạ – thu – đông cứ thế mà tuần hoàn, có gì phải xót thương? Sống là tự nhiên, chết là tự nhiên, thuận theo tự nhiên thì bản tính không loạn, làm trái tự nhiên thì bản tính trói buộc. Tâm chứa công danh thì sinh ra lo nghĩ, tâm chứa lợi dục thì gia tăng phiền não.

Khổng Tử nghe xong bừng tỉnh, tự đáy lòng vô vàn cảm kích, lưu luyến không rời, mãi lâu sau mới cáo biệt Lão Tử quay về nước Lỗ. Khổng Tử trở về nhà, ba ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ bèn hỏi thầy nguyên do. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể bay thì ta dùng cung tên để bắn, có thể bơi thì ta dùng lưới giăng bắt, có thể chạy thì ta dùng chó săn để đuổi theo. Còn như con rồng, ngao du huyền ảo, vô ảnh vô hình, ta không cách nào mà nắm bắt được. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi, khiến ta tâm thần bất định không biết ông ấy là người hay là thần. Lão Tử chính là vị thầy chân chính của ta!”  

Vài lời suy nghĩ: Khổng Tử học tập 27 năm nhưng vẫn chưa đắc Đạo, bởi vì rốt cuộc những tìm tòi nghiên cứu của ông chỉ là hiểu biết của con người, trái lại lời của Lão Tử lại hàm chứa nguyên lý của vũ trụ trong đó, học vấn của con người so với Đạo lý chân chính của vũ trụ thì còn cách rất xa. Thế nên cuối cùng Khổng Tử viết: “Triêu văn Đạo, tịch khả tử”, buổi sáng được nghe Đạo, buổi tối chết cũng cam lòng.

Đạo ấy vì sao vĩ đại như vậy? Nó là lực lượng tối cao chi phối và dẫn dắt con người. Lão Tử nói: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”. Con người hành xử thuận theo tự nhiên, việc gì cũng không tranh đoạt cưỡng cầu mà để nó xảy ra theo lẽ tự nhiên, ung dung tự tại giữa đất trời, ấy là đang đến gần hơn với Đạo.

Minh Nữ