1. Phụ nữ thời Tống 14 tuổi mà chưa kết hôn sẽ phải chịu phạt

Thời Tống, con trai 15 tuổi phải cưới vợ, con gái 13 tuổi phải kết hôn; Minh Thái Tổ quy định nam 16 tuổi chưa kết hôn, nữ 14 tuổi chưa gả cho ai, khi đến tuổi quy định mà không kết hôn, nhất định phải bị phạt tiền.

Vào thời nhà Hán, khi hoàng đế Lí Huệ trị vì, nhà nào có con gái trên 15 tuổi chưa lập gia đình sẽ bị phạt 600 quan tiền; còn trong triều đại nhà Đường, con trai trên 20 tuổi chưa kết hôn, con gái tuổi từ 15 trở lên mà không kết hôn cũng sẽ bị xử phạt.

2. Trung Quan thôn vốn là nhà dưỡng lão cho thái giám

Một vài thập kỷ trước đây, Trung Quan thôn (中關村) vốn là một nghĩa địa hoang vu, chủ yếu là mộ thái giám. Thời nhà Minh và Thanh, thái giám được gọi là “Trung Quan”, do đó, đây được gọi là “Trung Quan mộ.”

Thái giám được lập đền và dưỡng lão trong trang viên này. Ngoài ra vì các thái giám được gọi là “Trung Quan”; sau này, nơi đây được chọn để xây viện khoa học quốc gia. Vì thấy hai chữ “Trung Quan” không tốt nên đã được đổi thành “thôn Trung Quan”.

Trung Quan thôn ở khu Hải Điến, Bắc Kinh. Ngày nay, nơi đây nổi tiếng là viện khoa học quốc gia, còn được gọi là "Thung lũng Silicon của Trung Quốc" (Ảnh: Charlie fong, Wikipedia)
Thôn Trung Quan ở khu Hải Điến, Bắc Kinh. Ngày nay, nơi đây nổi tiếng là viện khoa học quốc gia, còn được gọi là “Thung lũng Silicon của Trung Quốc” (Ảnh: Charlie fong, Wikipedia)

3. Khổng Tử là nhà tiên phong về sách

“Luận ngữ” là tập sách đầu tiên của Khổng Tử:

1) Mỗi bài trong Luận ngữ đều không quá 140 từ;

2) Lời lẽ ngắn gọn, mà sâu sắc, hàm nghĩa thâm sâu;

3) Bị phân thành nhiều mảng, đa phần là viết về tâm tình của Khổng Tử, và những giao lưu về triết lý.

4) Tính tương tác cao, ông thường cùng Tử Công, Yên Hồi, Tử Lộ,… tiến hành hỏi đáp lẫn nhau;

5) Khổng Tử có hơn 3.000 đệ tử, trong đó có 72 người có danh tiếng lớn.

4. “Ghen tuông” bắt nguồn từ triều đại nhà Đường

Trong 22 năm làm tể tướng, Phòng Huyền Linh (房玄齡) là một người sáng lập quan trọng của triều đại nhà Đường. Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) đã lập bảng công thần, ban cho Phòng tể tướng hai mỹ nữ vô cùng xinh đẹp. Tuy nhiên phu nhân của tể tướng là Lư Thị lại vô cùng phiền não, không muốn cho hai mỹ nữ kia bước vào nhà.

Lý Thế Dân bèn sai người mang đến cho Phòng phu nhân một chén giấm, giả làm chén thuốc độc rồi hạ chỉ rằng: Môt là phải nhận mỹ nữ, hai là uống rượu độc. Lúc đó, Phòng phu nhân đã không ngần ngại chọn uống độc rượu, nhưng thực ra đó chỉ là một chén giấm. Thái Tông không còn cách nào khác đành thu hồi hai người đẹp về. Từ “ghen tuông” bắt nguồn từ điển tích này. Trong tiếng Hán, “ghen tuông” là “cật thố” (吃醋), theo nghĩa gốc là “uống giấm”.

Nàng Kiều (Ảnh: Internet)
Nàng Kiều (Ảnh: Internet)

Cũng từ đó, người ta còn dùng từ “giấm chua” để nói về những người vợ ghen. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, đoạn nói về nàng Kiều ở với Thúc Sinh, khi biết chàng có vợ đã lo lắng cho thân phận mình mà tha thiết nói:

“Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
Thế trong dầu lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa hồng.”

5. Cao Cầu vốn là thư đồng của Tô Đông Pha

Cao Cầu vốn có tiểu sử từ nhà Tô Đông Pha, tức là thư đồng, là người thông minh, giỏi việc chép sách. Khi Tô Thức bị điều chuyển cho phủ Trung Sơn, liền tiến cử Cao Cầu với Tăng Bố, nhưng Tăng Bố từ chối nên ông lại gửi Cao Cầu cho cho bạn mình là tiểu vương Đô thái úy Vương Sân (Vương Phổ Khanh). Có lần Vương Hứa muốn tặng con dao quý cho Vương Triệu liền sai Cao Cầu đem đi tặng.

Đúng lúc Kháp Trùng Đoan Vương đang đá cầu, đây là cơ hội để Cao Cầu thể hiện kỹ năng ưu tú của mình, từ đó giành được sự yêu thích của Triệu Cát. Về sau ông ở bên cạnh Đoạn vương. Sau khi Triệu Cát lên ngôi vương, Cao Cầu ngày càng thăng quan tiến chức.

6. Diêm Vương hóa ra không phải là một người

Chúng ta thường cho rằng Diêm Vương là một người, nhưng thực ra lại là mười người. Thập Điện Diêm La (十殿閻羅) là 10 Diêm Vương cai quản địa ngục được nhắc đến trong sách Phật. Việc này đã được đề cập đến vào cuối thời kỳ nhà Đường.

Các Diêm Vương bao gồm: Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Hạ Thành Vương, Tần Sơn Vương, Bình Đẳng Vương, Đô Thị Vương, Luân Hồi Vương. 10 Diêm Vương thuộc 10 điện khác nhau, cho nên gọi là Thập Điện Diêm Vương.

Thập điện Diêm Vương (Ảnh: internet)
Thập điện Diêm Vương (Ảnh: internet)

7. “Hậu” vốn dĩ là danh hiệu của Hoàng đế

Từ “Hậu” khiến chúng ta liên tưởng đến hoàng hậu, thái hậu,… Nhưng vào thời thượng cổ, Hậu là để biểu thị nam giới, hóa thân của quyền lực, tượng trưng cho Hoàng đế, Thiên tử. Danh xưng Hậu vẫn được lưu truyền cho đến thời nhà Chu. Năm đó, vợ của Thiên tử gọi là Phi, còn Hậu được gọi là Hoàng đế và được dùng trong cung đình hơn 360 năm.

Đến thời Chu, Phi mới đổi thành Hậu. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất 6 nước, Thiên tử gọi là Hoàng đế, vợ chính của Thiên tử được gọi là Hoàng hậu .

8. Thời Tống: Quân thần không được đi vào quán rượu, cho dù là việc công hay việc tư, nếu vi phạm đều phải chịu luật hình

Cuốn “Quy điền lục” (歸田錄) của Âu Dương Tu có ghi, Lỗ Túc Giản Công còn gọi là Dụ Đức, mặc thường phục vi hành, chè chén trong một quán rượu. Chân Tông hỏi: “Hà cơ gì lại đi vào quán rượu?”, Giản Công mới trả lời rằng: “Nhà thần nghèo, đồ uống rượu không có nên phải ra quán rượu, thần đến đó như là đến nhà mình, vừa hay có người bạn ở quê ra nên thần cùng anh ta ra quán rượu uống. Thần đã thay thường phục, nhất định là không có ai biết.” Chân Tông nhận thấy: “Rất có phẩm cách, có thể trọng dụng.

9. Lai lịch của “Hoàng Hoa Khuê Nữ”

Trong thời cổ đại, khi một người phụ nữ chưa lập gia đình trang điểm, thường thích dùng phấn vàng đánh trên trán hoặc một vùng mặt để tạo nên các đường hoa văn; cũng có lúc dùng giấy màu vàng cắt thành các hoa văn và dán lên mặt. “Hoàng hoa” (Hoa vàng) còn chỉ hoa cúc. Vì hoa cúc có thể sống trong giá lạnh, nên từ “hoa vàng” được dùng để biểu thị khí tiết.

(Ảnh: Internet)
(Ảnh: Internet)

Vì vậy, ở phía trước từ “khuê nữ” thường thêm hai chữ “hoàng hoa”, từ đó, ám chỉ người phụ nữ chưa kết hôn, và có thể bảo trì sự thanh khiết.

10. Nguồn gốc “Nhị oa đầu”

Thời nhà Thanh, kinh thành mở cuộc luận đàm nhằm nâng cao chất lượng rượu. Thường khi chưng, cần chưng cất mới có mùi thơm; lần đầu tiên nước lạnh trong nồi được gọi là “nước rượu đầu”, lần thứ ba thay nước gọi là “nước rượu cuối”, tiếp theo sẽ đến công việc khác.

Bởi vì nước nồi đầu tiên và thứ ba khi nguội sẽ có tạp chất, chỉ sau khi đổ vào nồi thứ hai mới có thể thành rượu. Cho nên loại rượu này được gọi là “Nhị oa đầu”.

11. Thời Tống: Thuê phòng ở Khai Phong chỉ có 106 đồng 

Lầu Điện Vụ, sau được đổi thành “Điếm Trạch Vụ”, chịu trách nhiệm về quản lý và bảo trì bất động sản nhà nước và bất động sản cho người dân thuê. Bạn có thấy rất quen không? Nó tương đương với việc cho thuê nhà giá thấp hiện nay. Vào thời điểm đó, Khai Phong có tổng cộng 1.192 nhà ở công, mỗi nhà với 170 Văn mỗi tháng (khoảng 360.000 VND ngày nay).

Như vậy, ở đất kinh kì, ngay dưới chân Thiên tử, những người bình thường vẫn có đủ khả năng để thuê phòng ở. Đây là một chế độ nhà ở đảm bảo, mọi người hoàn toàn có đủ khả năng để thuê.

12. Trung Quốc cổ đại có 4 tên gọi: Thần Châu, Cửu Châu, Hoa Hạ, Trung Nguyên

1) Thần Châu (神州): Các nhà hiền triết cổ đại lấy Thần Châu là trần cực, dưới là địa tâm, thường được gọi là “Thần Châu đại địa”.

2) Hoa Hạ (華夏): Ban đầu bao gồm khu vực Trung Nguyên, sau bao gồm toàn bộ lãnh thổ.

3) Cửu Châu (九州): Người Trung Quốc cổ đại phân chia như sau: Kí, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Lương, Ung, và Dự Châu.

4) Trung Nguyên (中原): Nơi sản sinh của nền văn minh Trung Hoa, trong thời cổ đại được dân tộc Hoa Hạ coi là trung tâm của thiên hạ.

Theo NTDTV
Quỳnh Chi biên dịch

Xem thêm: